Chuyển đến nội dung chính

Mind Map 09 - KINH TRƯỜNG BỘ - 15. Kinh Đại Duyên (Mahànidàna Sutta)

Mind Map 08 - KINH TRƯỜNG BỘ - 15. Kinh Đại Duyên (Mahànidàna Sutta)

Xuất Xứ:
Đức Phật đã thuyết Pháp Thoại này cho đại đức ÀNANDA tại bộ lạc KURU, có tên là KAMMÀSSADHAMMA.

Duyên Khởi:
Do đại đức ÀNANDA đã suy niệm về Pháp Liên Quan Tương Sinh và đã tán thánh pháp này trước đức Phật.

Chánh Kinh:

Đức Phật thuyết giảng pháp LIÊN QUAN TƯƠNG SINH
Đức Phật nhấn mạnh rằng, “Chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu Giáo Pháp này, mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một ổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống ngọn cỏ MUNJA và lau sậy BABBAJA, không thể nào ra khỏi Khổ Xứ, Ác Thú, Đọa Xứ, Sanh Tử.”
Trước tiên, đức Phật khải thuyết từ Già và Chết là do duyên Sanh, Sanh do Hữu, Hữu do Thủ, Thủ do Ái, Ái do Thọ, Thọ do Xúc, Xúc do Danh Sắc, Danh Sắc do Thức, Thức do Danh Sắc (tại đây không thấy đề cập đến ba Chi, Vô Minh, Hành, và Lục Xứ).
Như vậy, do duyên Danh Sắc, Thức được sanh; do duyên Thức, Danh Sắc được sanh; do duyên Danh Sắc, Xúc được sanh; do duyên Xúc, Thọ được sanh; do duyên Thọ, Ái được sanh; do duyên Ái, Thủ được sanh; do duyên Thủ, Hữu được sanh; do duyên Hữu, Sanh được sanh; do duyên Sanh, Lão Tử được sanh; do duyên Lão Tử, Sầu Bi Khổ Ưu Não được sanh. Đây là toàn bộ Khổ Uẩn tập khởi.
Ngoài ra, đức Phật còn đề cập thêm một số chi phần hợp theo Pháp Hiệp Thế Chế Định, như đề cập đến do duyên Thọ, Ái được sanh; do duyên Ái, Tầm Cầu được sanh; do duyên Tầm Cầu, Lợi được sanh; do duyên Lợi, Quyết Định (sở dụng của Lợi) được sanh; do duyên Quyết Định, Tham Dục được sanh; do duyên Tham Dục, Đắm Trước được sanh; do duyên Đắm Trước, Chấp Thủ được sanh; do duyên Chấp Thủ, Lận Sắt được sanh, do duyên Hà Tiện, Thủ Hộ được sanh; do duyên Thủ Hộ, một số Ác Pháp, Bất Thiện Pháp phát sanh, như là chấp trượng, chấp kiếm, tranh đấu, tranh luận, đấu khẩu, khẩu chiến, ác khẩu, vọng ngữ.

Đức Phật nói đến những lời tuyên bố và không tuyên bố của thế gian về Ngã, sự liên hệ giữa Ngã và các Cảm Thọ

1. Những lời tuyên bố về Tà Kiến Bản Ngã (Thân Kiến)
Bản Ngã hữu sắc và hữu hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai
Bản Ngã hữu sắc và vô hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai
Bản Ngã vô sắc và hữu hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai
Bản Ngã vô sắc và vô hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai

2. Những lời không tuyên bố về Tà Kiến Bản Ngã (Thân Kiến)
Bản Ngã hữu sắc và hữu hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai
Bản Ngã hữu sắc và vô hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai
Bản Ngã vô sắc và hữu hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai
Bản Ngã vô sắc và vô hạn ở ngay hiện tại hoặc vị lai

3. Đức Phật bác bỏ những quan niệm về bản ngã qua các cảm thọ.
Có ba loại cảm thọ, đó là Lạc thọ, Khổ thọ, và Bất Khổ Bất Lạc thọ. Cả ba loại cảm thọ này đều là vô thường, hữu vi, là pháp duyên khởi, là pháp đoạn hoại, là pháp đoạn diệt, là pháp ly dục, là pháp diệt tận.
Không thể chấp nhận quan niệm, “Ngã của tôi là Thọ,” “Ngã của tôi có cảm thọ.” “Ngã của tôi không phải là Thọ,” “Ngã của tôi không phải không có cảm thọ.”
Khi vị tỳ khưu không quan niệm Ngã là Thọ, không quan niệm Ngã không phải Thọ, không quan niệm: “Ngã của tôi là Thọ, Ngã của tôi có khả năng cảm thọ,” khi ấy vị tỳ khưu này sẽ không chấp trước một điều gì ở trên đời, vì không chấp trước nên không sợ hãi, vì không sợ hãi nên hoàn toàn tự mình tịch diệt.
Vị tỳ khưu này biết, “Sanh đã tận. Phạm Hạnh đã thành. Những việc cần làm đã làm. Sau đời này, không còn đời khác nữa.” Khi liễu tri được như thế thì sẽ được giải thoát.

Đức Phật thuyết bảy trú xứ của Thức, hai loại Xứ, và tám Giải Thoát

1. Có bảy trú xứ của Tâm Thức
THÂN DỊ TƯỞNG DỊ: Thân hình khác nhau, tư tưởng khác nhau, như là Nhân Loại, Chư Thiên, và một số trong Địa Ngục.
THÂN DỊ TƯỞNG ĐỒNG: Thân hình khác nhau, nhưng tư tưởng giống nhau, như là các vị Phạm Chúng Thiên ở tầng Sơ Thiền.
THÂN ĐỒNG TƯỞNG DỊ: Thân hình giống nhau, nhưng tư tưởng khác nhau, như là các vị Quang Âm Thiên ở tầng Nhị Thiền.
THÂN ĐỒNG TƯỞNG ĐỒNG: Thân hình giống nhau, tư tưởng giống nhau, như là các vị Biến Tịnh Thiên ở tầng Tam Thiền.
KHÔNG VÔ BIÊN XỨ: Vượt khỏi mọi sắc tưởng, đoạn trừ tất cả hữu đối tưởng, không còn suy tư đến bất luận một dị loại tưởng, như là các vị Không Vô Biên Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
THỨC VÔ BIÊN XỨ: Vượt khỏi Không Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng “Thức là vô biên,” như là các vị Thức Vô Biên Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
VÔ SỞ HỮU XỨ: Vượt khỏi Thức Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng “Vô Sở Hữu” (lấy đề mục “không có chi cả” làm cảnh giới), như là các vị Vô Sở Hữu Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.

2. Có hai loại xứ
VÔ TƯỞNG HỮU TÌNH XỨ ở cõi Sắc Giới.
PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ ở cõi Vô Sắc Giới.

Với bảy trú xứ của Tâm Thức và hai loại Xứ, một vị tỳ khưu như thật hiểu biết được sự tập khởi, sự đoạn trừ, phước vị, hoạn nạn, xuất ly khỏi chúng, nhờ không còn chấp thủ, vị tỳ khưu này được giải thoát, vị tỳ khưu này được gọi là Tuệ Giải Thoát.

3. Có tám giải thoát
Tự mình có Sắc, thấy các Sắc Pháp
Không biết tự mình có Sắc, thấy các Sắc ngoài tự thân
Tâm mạnh hướng đến thanh tịnh
Chứng và trú vào Hư Không Biên Xứ
Chứng và trú vào Thức Vô Biên Xứ
Chứng và trú vào Vô Sở Hữu Xứ
Chứng và trú vào Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Chứng và trú vào Thiền Diệt (Diệt Thọ Tưởng Định)
Khi một vị tỳ khưu thuận tùng thể nhập tám giải thoát này, có thể nhập và xuất khỏi bất cứ giải thoát nào khi nào mình muốn, chỗ nào mình muốn, và dài bao lâu mình muốn. Với các Lậu Hoặc được đoạn trừ, vị tỳ khưu này chứng và an trú trong tám giải thoát và tuệ giải thoát, không còn Lậu Hoặc ngay trong thời hiện đại, tự mình thâu đạt và chứng ngộ.

Kết Luận:
Khi chấm dứt thời Pháp Thoại, đại đức ÀNANDA hoan hỷ tín thọ lời dạy của đức Thế Tôn.

Các bài trích trong cuốn Giáo Án Trường Bộ Kinh
của Tỳ Khưu PASÀDO Sán Nhiên. Nguồn Vietheravada

Nghe trên youtube:





Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.