Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (34)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (34)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[22] Chương I: Tương Ưng Uẩn (g)
C. Năm Mươi Kinh Sau
II. Phẩm Thuyết Pháp

X. Vị Giữ Giới (Tạp 10, Ðại 2,65b) (S.iii,167)

1) Một thời, Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Tôn giả Mahà Kotthika trú ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isipatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.

2-3) Rồi Tôn giả Mahà Kotthika, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta... thưa như sau:

-- Thưa Hiền giả Sàriputta, những pháp gì Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý?

4) -- Này Hiền giả Kotthika, Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.

5) Thế nào là năm? Tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Hiền giả Kotthika, vị Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.

6) Này Hiền giả, sự kiện này xảy ra: Tỷ-kheo giữ giới do như tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được quả Dự lưu.

7) -- Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự lưu, này Hiền giả Sàriputta, những pháp gì cần phải như lý tác ý?

8-9) -- Với Tỷ-kheo đã chứng quả Dự lưu, này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo Dự lưu, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được quả Nhứt lai.

10) -- Nhưng Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền giả Sàriputta, phải như lý tác ý các pháp gì?

11) -- Tỷ-kheo Nhứt lai, này Hiền giả Kotthika, phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo Nhứt lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được quả Bất lai.

12) -- Nhưng Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý những pháp gì?

13-15) -- Tỷ-kheo Bất lai, này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỷ-kheo Bất lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường... vô ngã, có thể chứng được quả A-la-hán.

16) -- Nhưng vị A-la-hán, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý các pháp gì?

17) -- Vị A-la-hán, này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.

18) Với vị A-la-hán, này Hiền giả, không có gì phải làm nữa, hay không có phải thêm gì nữa trong công việc làm. Nhưng sự tu tập, làm cho sung mãn những pháp này sẽ đưa đến hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.

XI. Vị Có Nghe (S.iii,169)

(Hoàn toàn như kinh trước, chỉ thay thế vị có nghe cho vị giữ giới ).

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 1: Tương Ưng Uẩn
Phẩm Thuyết Pháp

VỊ GIỮ GIỚI (Silavantasutta)

“1) Một thời, Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Tôn giả Mahā Kotthika trú ở Bārānasi (Ba-la-nại), tại Isipatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.

Ngài Xá Lợi Phất là Đệ nhất trí tuệ, ngài Mahā Kotthika là Đệ nhất Vô ngại giải rất thường đàm đạo và thuyết giảng.

“2-3) Rồi Tôn giả Mahā Kotthika, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Sāriputta… thưa như sau:

-- Thưa Hiền giả Sāriputta, những pháp gì Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý?”

“những pháp gì Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý?” nói theo ngôn ngữ của mình là “vị tỳ kheo tu hành ngon lành thì trong đầu thường xuyên nên nghĩ nhiều về cái gì?”. Có giới, nghĩa là ‘không phạm giới’, nhưng ‘không phạm giới’ thì chưa đủ. Không phạm giới nghĩa là không làm bậy, chỉ là mình ‘không thiếu nợ’ thôi. ‘Không thiếu nợ’ chưa đủ, phải làm ra tiền nữa. Có hai cách làm giàu: giữ kỹ số tiền đã có sẵn, và kiếm thêm số tiền mới. Giữ kỹ, kẹo quá không tiêu, lâu ngày cũng có tiền nhiều. Một vị tỳ kheo chỉ giữ giới thôi thì chưa đủ.

Ngài Mahā Kotthika là Đệ nhất vô ngại giải; bốn trí vô ngại của ngài có được là do ngài thường xuyên trao đổi không mệt mỏi. Những gì ngài hỏi không phải là ngài không biết. Theo trong các kinh, giống như ngài Mahākassapa gặp ngài Mục Kiền Liên là hay hỏi, ngài Mục Kiền Liên gặp ngài Xá Lợi Phất là hay hỏi, thậm chí ngài Xá Lợi Phất gặp ngài Ānanda, cũng hỏi. Bởi vì các ngài sống chìm sâu trong pháp, nên khi gặp nhau chỉ làm hai việc, hoặc cùng nhau im lặng để thiền định hoặc trao đổi suy nghĩ về Phật pháp với nhau. 

Tôi không tin ở trong room này có ai tha thiết với Phật pháp đến mức như vậy. Một người tha thiết với Phật pháp có thứ niềm vui mà không phải ai cũng có, đó là đem vấn đề giáo lý ra hỏi người trước mặt mình xem họ nghĩ ra làm sao. Cảm giác đó sung sướng lắm. Nếu bây giờ tôi gặp được một người như sư Giác Nguyên, tôi sẽ hỏi từ sáng đến tối. Rất tiếc là những người tôi gặp từ châu Âu cho đến bên Mỹ, khi gặp toàn nói chuyện tào lao, khi xa tôi rồi thì bóc phone hỏi đạo, hỏi giáo lý, còn lúc ở chung nhà, hai cửa phòng cách nhau có một thước mà chẳng bao giờ hỏi. 

Tôi chưa bao giờ nói tôi giỏi, tôi chỉ lấy làm tiếc, nếu tôi gặp một người giống như tôi thì tôi hỏi miệt mài luôn. Tôi muốn nói rằng, khi mình sống sâu trong Phật pháp, tìm được người để hỏi thì hạnh phúc lắm, giống như người chơi tem, chơi tiền cổ hay bonsai, hoặc dân mê xe; gặp nhau và trao đổi kinh nghiệm, kiến thức thì rất hạnh phúc. Vì không mê nên mình không tưởng tượng được có những kẻ thà bỏ vợ, chớ không bỏ tem, không bỏ đồ cổ. Vương Hồng Sển kể, thời ông còn trẻ, ông mua được cái tô, mê đến mức đem cái tô vào trong mùng. Bà vợ ông chịu không nổi khi buổi tối ông cứ ôm cái tô mà săm soi miết.

Khi ngài Mahā Kotthika hỏi câu trên, ngài Xá Lợi Phất trả lời: Quán chiếu năm uẩn! Một người phàm thường xuyên quán chiếu năm uẩn thì sớm muộn gì, không phải đời này cũng kiếp khác, sẽ chứng quả Dự Lưu. Ngài Mahā Kotthika hỏi thêm: Nếu một vị đã đắc Dự Lưu rồi thì cái gì quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của vị ấy? Ngài Xá Lợi Phất trả lời: Vẫn là chừng đó, thường xuyên quán chiếu.

“4)Này Hiền giả Kotthika, Tỷ-kheo giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.”

Ở đây ngài Xá Lợi Phất dạy phải quán chiếu năm uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.”. ‘Người lạ’ nghĩa là không phải là của mình. ‘Rỗng không’ nghĩa là không cốt lõi, thấy vậy mà không phải vậy nên gọi là ‘rỗng không’.

Tôi không hề có bằng cấp học vị gì hết, nhưng tôi dám nói một câu đại ngôn là không có đời sống nào thông minh và an toàn cho bằng đời sống thường trực quán chiếu năm uẩn. Thông minh là vì không đời sống nào đem lại cho mình sự an lạc, thông suốt cho bằng sự quán sát thường xuyên thân này là như vậy, tâm này là như vậy. Thông minh và an toàn nhất vẫn chính là đời sống của một hành giả Tứ Niệm Xứ. Đó là đời sống quan sát thân tâm mình ra sao để thấy nó luôn thay đổi, buồn nhiều vui ít, luôn đối mặt với vị đắng: thân sẵn sàng gặp nạn, tâm sẵn sàng buồn khổ thất vọng. An toàn nghĩa là với kiểu sống này, mình có thể sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào, và bình tâm trước bất cứ chuyện gì xảy ra; không tiếc nuối, không sợ hãi khi mất mát. 

Cách đây không lâu, một số người quen của tôi gặp phải vấn đề về danh lợi, quyền lực, nhìn họ thấy thay đổi lớn lắm. Tôi không phải là thánh, có thương lắm tôi cũng không biết chia sẻ bằng cách nào bởi họ sống không có quán chiếu nên rất khổ. Đức Thế Tôn khi đi thăm bệnh, Ngài nhắc đi nhắc lại một câu với người hấp hối: “Đừng thấy năm uẩn này là ngươi, đừng thấy ngươi là năm uẩn này. Hãy luôn luôn nhớ rằng tất cả những sự sợ hãi, tiếc nuối, đau đớn đều là vô thường, đến rồi đi”. Phải có một ngày chúng ta buông hết để mà đi, thưa quí vị. 

HT Hộ Giác, HT Tâm Châu, HT Giác Nhiên, HT Mãn Giác, HT Huyền Vy, HT Thiên Ân… bao nhiêu vị khi còn sống, tiếng tăm, uy tín, quyền lực, chùa miểu to lớn, khi đi thì không còn gì hết. Cuộc đời các vị vừa kể, đối với tôi là một tượng đài, một trang kinh mỗi lần nhớ đến, tôi ít nhiều cảm thấy sốc. Khi còn trẻ, còn sung sức khỏe mạnh, minh mẫn, các vị ấy đã có những thành tựu đến như vậy mà bỗng chốc một cái buông hết. Quan trọng là cái chết của một hành giả chớ không phải là cái sống của một người không phải hành giả. Nếu hôm nay có người hỏi tôi, trong đời tu cái gì quan trọng nhất. Tôi sẽ trả lời, quan trọng nhất đó là mình có được cái chết của một hành giả, chớ không phải là kiểu sống của một người không phải hành giả. 

Dù mình có là nhân vật nào ghê gớm đi nữa, nhưng không phải là hành giả thì chỉ đau khổ mà thôi. Và trong bài kinh này, ngài Xá Lợi Phất đã nói rằng, còn là phàm, là thánh thấp thì phải thường xuyên quán chiếu năm uẩn; ngay cả đối với một vị A-la-hán không còn việc gì để làm nữa, thì việc quán chiếu năm uẩn cũng làm cho vị ấy an lạc hơn. “18) Với vị A-la-hán, này Hiền giả, không có gì phải làm nữa, hay không có phải thêm gì nữa trong công việc làm. Nhưng sự tu tập, làm cho sung mãn những pháp này sẽ đưa đến hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.” Cho dù vị A-la-hán sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, gánh nặng sinh tử đã đặt xuống, không còn chuyện gì để làm nhưng vị ấy vẫn luôn thường trực quán chiếu năm uẩn, thấy nó là gánh nặng.

Thường trực quán chiếu năm uẩn để thấy nó là rỗng không, là của nợ, từ đó chuyện gì xảy ra cho nó mình cũng thấy nhẹ, không tưởng tiếc, không sợ hãi, và nhờ vậy có thể sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào.

NGƯỜI ĐA VĂN (Sutavantasutta)

Người có giới hay đa văn đều phải có đời sống giống nhau là thường xuyên quán chiếu mặt trái của năm uẩn. Đó là kiểu sống duy nhất an toàn nhất và thông minh nhất không thể hơn nữa, dù người đó là phàm phu hay A-la-hán, bởi toàn bộ thế giới này ra sao đều tùy thuộc cách nhìn của chúng ta. ‘Chúng ta’ chính là năm uẩn. Đối với thân và tâm này mà chúng ta có cái nhìn thông suốt thì chuyện gì cũng thông suốt. Còn quá coi nặng ‘cái tôi’ thì chuyện gì xảy đến sẽ chịu không nổi.

‘Silavanta’ nghĩa ‘người đức hạnh’ và ‘Sutavanta’ nghĩa là ‘người học thức’ theo nghĩa nhà Phật là am tường giáo lý. Hai hạng người này chỉ có một đời sống được xem là thông minh nhất và an toàn nhất đó là thường xuyên quán chiếu năm uẩn. Tôi không xúi quí vị tò mò tọc mạch đánh giá người khác, tuy nhiên, đối diện với một người tự nhận mình là hành giả, là uyên thâm Phật pháp, là cao tăng, là chân tu v.v…, cái quan trọng nhất là nếu mình muốn ‘quỳ sụp’ (theo nghĩa bóng) dưới chân họ thì phải coi họ có phải là người thường xuyên quán chiếu hay không. Đó là giá trị thật sự của một người tu học! Giá trị thật sự của một người tu học không nằm ở quyền lực, uy tín, tiếng tăm hay chùa miểu, mà chính là khả năng thường xuyên sống quán chiếu năm uẩn. Nhìn qua mà thấy họ sống phóng dật là biết là đồ dỏm rồi.
_____________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.