Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (16)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (16)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[22] Chương I: Tương Ưng Uẩn (d)

III. Phẩm Những Gì Ðược Ăn

X. Trăng Rằm (Tạp 2, Ðại 2,14b) (S.iii,100) (Trung Bộ Kinh, trang 109, 110 Tham chiếu)

1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Ðông Viên, Lộc Mẫu giảng đường, cùng với đại chúng Tỷ-kheo.

2) Lúc bấy giờ, Thế Tôn nhân ngày lễ Bố-tát, ngày rằm, đêm trăng tròn, giữa trời, có chúng Tỷ-kheo đoanh vây.

3) Rồi có Tỷ-kheo, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, con muốn hỏi Thế Tôn một vấn đề, nếu Thế Tôn cho phép, và trả lời câu hỏi của con.

-- Này Tỷ-kheo, hãy ngồi tại chỗ và hỏi theo ý Ông muốn.

4) -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, ngồi tại chỗ ngồi của mình và bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, có phải có năm thủ uẩn này: tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn?

-- Này Tỷ-kheo, có năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn... thức thủ uẩn.

5) -- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, rồi hỏi thêm Thế Tôn một câu khác:

-- Bạch Thế Tôn, năm thủ uẩn này lấy gì làm căn bản?

-- Này Tỷ-kheo, năm thủ uẩn này lấy dục làm căn bản.

6) -- Lành thay, bạch Thế Tôn...

-- Bạch Thế Tôn, chấp thủ ấy là năm thủ uẩn ấy hay chấp thủ ngoài năm thủ uẩn?

-- Này Tỷ-kheo, chấp thủ ấy không tức là năm thủ uẩn ấy và chấp thủ cũng không phải ngoài năm thủ uẩn. Nhưng chỗ nào có tham và dục, chỗ ấy có chấp thủ.

7) -- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy... hỏi Thế Tôn một câu hỏi khác:

-- Có thể chăng, bạch Thế Tôn, trong năm thủ uẩn, có sự sai khác về dục và tham?

Thế Tôn đáp :

-- Có thể có, này Tỷ-kheo.

Ở đây, này Tỷ-kheo, có người nghĩ như sau: "Mong rằng trong tương lai, ta sẽ có sắc như vậy! Mong rằng trong tương lai ta sẽ có thọ như vậy! Mong rằng trong tương lai, ta sẽ có tưởng như vậy! Mong rằng trong tương lai ta sẽ có các hành như vậy! Mong rằng trong tương lai ta sẽ có thức như vậy!" Như vậy, này Tỷ-kheo, có thể có sự sai khác về dục và tham trong năm thủ uẩn.

8) -- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy... hỏi thêm câu hỏi nữa:

-- Dưới hình thức nào, bạch Thế Tôn, có định nghĩa về uẩn của các uẩn?

-- Phàm sắc gì, này Tỷ-kheo, thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; đây gọi là sắc uẩn. Phàm thọ gì... Phàm tưởng gì... Phàm các hành gì... Phàm thức gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; đây gọi là thức uẩn. Dưới hình thức như vậy, này Tỷ-kheo, có định nghĩa về uẩn của các uẩn.

9) -- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy... hỏi thêm câu hỏi nữa:

-- Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, được gọi là sắc uẩn? Do nhân gì, do duyên gì, được gọi là thọ uẩn? Do nhân gì, do duyên gì, được gọi là tưởng uẩn? Do nhân gì, do duyên gì, được gọi là hành uẩn? Do nhân gì, do duyên gì, được gọi là thức uẩn?

-- Do nhân bốn đại, này Tỷ-kheo, do duyên bốn đại, được gọi là sắc uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc, được gọi là thọ uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc, được gọi là tưởng uẩn. Do nhân xúc, do duyên xúc, được gọi là hành uẩn. Do nhân danh sắc, do duyên danh sắc, được gọi là thức uẩn.

10) -- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy... hỏi thêm câu khác:

-- Như thế nào, bạch Thế Tôn, là có thân kiến?

-- Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay quán tự ngã như là có sắc, hay quán sắc ở trong tự ngã, hay quán tự ngã ở trong sắc... thọ... tưởng.. hành... quán thức như là tự ngã, hay quán tự ngã như là có thức,hay quán thức ở trong tự ngã, hay quán tự ngã ở trong thức. Như vậy, này Tỷ-kheo, là có thân kiến.

11) -- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy... hỏi thêm câu nữa:

-- Như thế nào, bạch Thế Tôn, là không có thân kiến?

-- Ở đây, này Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử thấy rõ các bậc Thánh, khéo thuần thục pháp các bậc Thánh, khéo tu tập pháp các bậc Thánh; thấy rõ các bậc Chân nhân, khéo thuần thục pháp các bậc Chân nhân, khéo tu tập pháp các bậc Chân nhân, không quán sắc như là tự ngã, hay không quán tự ngã như là có sắc, hay không quán sắc ở trong tự ngã, hay không quán tự ngã ở trong sắc, không quán thọ... không quán tưởng... không quán các hành... không quán thức như là tự ngã, hay không quán tự ngã như là có thức, hay không quán thức ở trong tự ngã, hay không quán tự ngã ở trong thức. Như vậy, này Tỷ-kheo, là không có thân kiến.

12) -- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy... hỏi thêm một câu nữa:

-- Bạch Thế Tôn, cái gì là vị ngọt, là sự nguy hiểm, là sự xuất ly của sắc?... của thọ... của tưởng... của các hành? Cái gì là vị ngọt, là sự nguy hiểm, là sự xuất ly của thức?

-- Này Tỷ-kheo, do duyên sắc, khởi lên lạc hỷ gì, đó là vị ngọt của sắc. Sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại của sắc, đó là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục và tham, sự đoạn tận dục và tham đối với sắc, đó là sự xuất ly của sắc. Do duyên thọ... Do duyên tưởng... Do duyên các hành... Do duyên thức khởi lên lạc hỷ gì, đó là vị ngọt của thức. Sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại của thức, đó là sự nguy hiểm của thức. Sự nhiếp phục dục và tham, sự đoạn tận dục và tham đối với thức, đó là sự xuất ly của thức.

13) -- Lành thay, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, lại hỏi Thế Tôn thêm câu nữa:

-- Bạch Thế Tôn, do biết như thế nào, do thấy như thế nào, đối với thân có thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có (quan điểm): ngã kiến, ngã sở kiến, mạn tùy miên?

-- Này Tỷ-kheo, phàm sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả sắc, Tỷ-kheo như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Ðây không phải của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải tự ngã của tôi". Phàm thọ gì... Phàm tưởng gì... Phàm các hành gì... Phàm thức gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc nội hay ngoại, hoặc thô hay tế, hoặc liệt hay thắng, hoặc xa hay gần; tất cả thức, Tỷ-kheo như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Ðây không phải của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải tự ngã của tôi!" Này Tỷ-kheo, do biết như vậy, thấy như vậy, đối với thân có thức này và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có (quan điểm): ngã kiến, ngã sở kiến, mạn tùy miên.

14) Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo khác khởi lên suy nghĩ sau đây: "Nếu Ngài nói sắc là vô ngã, thọ... tưởng... các hành... thức là vô ngã, thời các nghiệp do vô ngã tạo ra, thời ngã nào lãnh thọ?"

15) Rồi Thế Tôn với tâm tư của mình biết rõ suy nghĩ của Tỷ-kheo ấy, liền nói với các Tỷ-kheo:

-- Sự kiện này xảy ra, này các Tỷ-kheo, là có kẻ ngu si, vô trí, chìm đắm trong vô minh, tâm bị khát ái chi phối, nghĩ rằng có thể vượt qua lời dạy bậc Ðạo Sư, nghĩ rằng: "Nếu Ngài dạy rằng sắc là vô ngã, thọ... tưởng... các hành... thức là vô ngã, thời các nghiệp do vô ngã làm, các nghiệp ấy do ngã nào lãnh thọ?" Này các Tỷ-kheo, các câu vấn nạn đã được Ta khéo dạy cho các Ông, chỗ này, chỗ kia trong các pháp ấy.

16) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?

-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.

17-19) -- Thọ... tưởng... các hành...

20) Thức là thường hay vô thường?

-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-- Là khổ, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng, nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

-- Do vậy... thấy vậy... vị ấy biết: "Sanh đã tận... không còn trở lui trạng thái này nữa".

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Những Gì Được Ăn

TRĂNG RẰM

Sớ giải nói mỗi bài kinh trong Phẩm Những Gì Đáng Được Ăn này sau khi kết thúc đều có năm trăm tỳ kheo chứng quả La-Hán.  “Imassa ca pana vaggassa ekekasmiṃ sutte pañcasatā pañcasatābhikkhū arahattaṃ pattāti”: Trong bhikkhū arahattaṃ pattāti”: Trong mỗi mỗi bài kinh của phẩm này có năm trăm tỳ kheo chứng La-Hán. (Nhắc lại hai lần chữ ‘pañcasatā’, ‘ekekasmin’).

Sau khi Ngài giảng xong bài kinh Trăng Rằm này thì cũng có 500 vị tỳ kheo chứng quả La-Hán. Thời Đức Phật, việc chư tăng chứng quả là bình thường. Có người hỏi tôi tại sao dễ đắc như vậy. Tôi trả lời có rất nhiều lý do:

– Người có duyên gặp Phật trực tiếp là đã tu quá nhiều kiếp, lại xuất gia bên cạnh Ngài, được gặp gỡ lắng nghe âm thanh, nhìn ngắm hảo tướng của Ngài mỗi ngày, họ như vậy đâu phải là người tầm thường.

– Đức Thế Tôn thấy rõ mỗi căn cơ sở tánh của từng người trước mặt Ngài, biết họ phải được nghe cái gì. Như vậy phước của họ đâu phải nhỏ. Người nào được nghe Ngài dạy là phước của họ lớn lắm. Chẳng hạn với những người ngồi trước mặt, Ngài biết rõ đều phải nói về năm uẩn, nhưng có trường hợp với 500 vị ngồi trước mặt Ngài dùng một cách nói là xong, và có trường hợp trong 500 vị này lại lọt ra có bốn vị cũng có căn duyên đắc quả bằng đề tài năm uẩn, nhưng đối với bốn vị này Ngài còn cách nói riêng. Cũng hoa hồng, thược dược, cẩm chướng, glaieul nhưng khi được chưng trong bình như thế nào, bằng chất liệu gì, mới hay cũ, phối với lá gì, nhìn thấy chúng trong hoàn cảnh nào, mỗi trường hợp như vậy bình hoa đó đem lại cho mình cảm xúc khác nhau. 

Cũng là năm uẩn, nhưng ở mỗi người, Đức Phật có cách nói khác một chút trong điều kiện đặc biệt nào đó. Có vị sau cơn mưa thì họ nghe pháp thấy thoải mái hơn. Có vị thấy trăng rằm treo đầu núi, trăng xuyên rừng cây, gió thổi mơn man, trong bối cảnh đó họ mau đắc hơn. Trong bối cảnh đó, những hình ảnh ví dụ của Đức Phật, cộng với tình trạng tâm sinh lý, cảm xúc của họ sẽ cho họ bối cảnh tâm lý thích hợp. Đây là những điều mình nên ghi nhận để hiểu rằng vì sao có lúc mình tu tập Tứ Niệm Xứ mà chánh niệm không tập trung, có lúc mình chánh niệm mà không an lạc. Khi đó mình phải rà soát xem mình đang có trục trặc cái gì về sức khỏe, phòng ốc, nhiệt độ, mùi vị, âm thanh, ánh sáng… hay không. Có khi mình tu mà bực quá và tìm ra lý do rất đơn giản, đi tắm là khỏe.

“3) Rồi có Tỷ-kheo, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, con muốn hỏi Thế Tôn một vấn đề, nếu Thế Tôn cho phép, và trả lời câu hỏi của con.

— Này Tỷ-kheo, hãy ngồi tại chỗ và hỏi theo ý Ông muốn.”

Sớ giải nói rằng, vị tỳ kheo này là sư phụ của 500 vị tỳ kheo khác cũng đang có mặt trong pháp hội. Trong Sớ giải nói một điều rất thú vị:

Ācariye pana ṭhitake pucchante sace te bhikkhū nisīdanti, satthari gāravaṃ kataṃ hoti, ācariye agāravaṃ. Sace uṭṭhahanti, ācariye gāravaṃ kataṃ hoti, satthari agāravaṃ. Iti nesaṃ cittaṃ anekaggaṃ bhavissati, desanaṃ sampaṭicchituṃ na sakkhissanti. Tasmiṃ pana nisīditvā pucchante tesaṃ cittaṃ ekaggaṃ bhavissati, desanaṃ sampaṭicchituṃ sakkhissantīti ñatvā bhagavā evamāha.

Vị này đứng trước mặt Thế Tôn hỏi pháp. Nếu sư phụ đứng hỏi pháp mà học trò vẫn tiếp tục ngồi thì các vị đó có lòng tôn kính Đức Phật nhưng lại thất kính đối với sư phụ của mình. Nếu sư phụ đứng mà mình cũng đứng theo thì mình bày tỏ lòng tôn kính đối với sư phụ của mình nhưng lại bất kính với Đức Phật vì trước mặt Bậc Đạo sư mà mình cứ theo sư phụ. Nếu mình ở vào hoàn cảnh bất kính nơi Đức Phật hay bất kính nơi sư phụ thì tâm của mình không tập trung được, mà nếu không tập trung được thì không có khả năng tiếp thu được pháp thoại.

Đức Phật thấy rõ sự hoang mang nhấp nhổm của năm trăm vị tỳ kheo nên Ngài mới nói: Này Tỷ-kheo, hãy ngồi tại chỗ và muốn gì thì cứ hỏi.

Có đọc những điều này mới thấy chú giải là quan trọng, có đoạn nhỏ xíu như vậy nhưng chú giải nói cho mình biết những chuyện mình không thể ngờ được.

* Năm thủ uẩn

“Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, ngồi tại chỗ ngồi của mình và bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, có phải có năm thủ uẩn này: tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn?

— Này Tỷ-kheo, có năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn… thức thủ uẩn.”

Trong kinh nói vị này hỏi không phải vì không biết. Thời đó không có chữ viết, toàn bộ những gì gọi là giáo lý Phật pháp, chư tăng ni Phật tử học hỏi biết được đều nhờ bằng tai. Mình thì bữa nay có sách in, có internet. Tại sao có 500 đệ tử ở đó mà vị này lại đi hỏi câu rất căn bản như vậy? Bởi vì, câu mở đầu tuy đơn giản nhưng mục đích của vị này là để hiểu sâu vô một số vấn đề và để cho các đệ tử được nghe những vấn đề mà vị này nghi ngờ là đệ tử mình chưa thông.

Trước hết, vị này hỏi có phải năm uẩn còn được gọi là năm thủ uẩn hay không. Sở dĩ được gọi là Trước hết, vị này hỏi có phải năm uẩn còn được gọi là năm thủ uẩn hay không. Sở dĩ được gọi là năm thủ uẩn bởi vì nhắm đến trường hợp năm uẩn bị ghi nhận, bị nhìn ngắm, bị quan sát từ góc độ chấp thủ; trong trường hợp đó thì được gọi là năm thủ uẩn. Ví dụ, cũng món ăn đó mà mình gọi là món ‘khoái khẩu’ bởi món đó là món ruột của mình, hoặc con gái cưng thì gọi là ‘con gái rượu’.

Tiếp đó vị này hỏi, năm uẩn lấy gì làm căn bản, ở đâu mà có, tồn tại dựa vào cái gì. Đức Phật dạy: Năm uẩn lấy dục làm gốc, dục ở đây chính là tham ái.

‘Chandamulaka’: lấy dục làm gốc.

‘Tanhachandamulaka’: dục ở đây chính là tham ái

Do đời trước thích thú trong sáu trần nên ta mới có sáu căn đời này. Do đam mê trong năm uẩn đời trước nên đời này ta mới có năm uẩn. Phạm thiên Vô tưởng chán danh uẩn nên chỉ có sắc uẩn, dù tạm thời trong 500 đại kiếp. Phạm thiên cõi Vô sắc chán sắc uẩn nên chỉ có bốn danh uẩn, dù chỉ tạm thời trong vài chục ngàn đại kiếp. Bậc thánh Sơ quả nhàm chán tất cả danh sắc nhưng chưa rốt ráo nên còn tái sinh thêm tối đa bảy kiếp. Bậc A-na-hàm nhàm chán tuyệt đối năm dục nên vĩnh viễn không trở lui cõi Dục giới và sau đó viên tịch từ cõi Phạm thiên. Bậc A-la-hán nhàm chán năm uẩn một cách triệt để nên sau khi tắt hơi không còn tái sinh. Như vậy năm uẩn lấy tham ái làm căn bản.

Rõ ràng cái thích của mình có vai trò quyết định trong cảnh giới tái sinh của mình. Vì vậy tu Tứ Niệm Xứ sống chánh niệm là hạn chế tối đa những cái thích. Khi sống thất niệm, phiền não tha hồ xuất hiện, nên chỗ đi về cũng rất bất trắc, bao la. Dĩ nhiên, đơn vị gốc vẫn là bốn cõi đọa. Khi sống chánh niệm thì không chìm sâu trong sáu trần, nếu đủ duyên thì chứng quả, còn không đủ duyên thì chỗ đi cũng đàng hoàng, đó là lý do mình tu Tứ Niệm Xứ.

Đoạn 6, vị tỳ kheo hỏi: “Bạch Thế Tôn, sự chấp thủ đó là năm thủ uẩn ấy hay nằm ngoài năm uẩn?” Đức Phật không trả lời là trong hay ngoài mà Ngài dạy khi nào tham ái (đam mê) có mặt thì khi đó sự chấp thủ có mặt.

Sắc uẩn là thân xác này. Thọ uẩn là Tâm sở thọ. Tưởng uẩn là Tâm sở tưởng. Hành uẩn là các tâm sở thiện ác. Thức uẩn là cái biết của sáu thức. Như vậy, khi ta đam mê hay bất mãn trong cái gì đó thuộc tinh thần hay vật chất cũng có nghĩa là ta đang đam mê trong năm uẩn. Sự đam mê đó là Tâm sở tham trong Hành uẩn. Vì vậy khi vị tỳ kheo hỏi câu hỏi trên thì Đức Phật không trả lời trong hay ngoài. Giống như hỏi lửa nằm ở đâu trong hộp quẹt. Ta phải nói lửa không ở đâu hết, nó chỉ có khi duyên hội. Điều kiện hội đủ thì gọi là duyên hội. Chữ này rất là đẹp. Khi duyên hội thì cái này cái kia có mặt. Vũ trụ này là chỗ duyên hội cho mọi hiện tượng. Vì đâu có chồi non, vì đâu có lá vàng? Lá trúc vàng đâu phải bởi mùa thu, đốt lửa gần cái cây thì lá cũng vàng vậy.

Đoạn 7, “Tỷ-kheo ấy hỏi Thế Tôn một câu hỏi khác: Bạch Thế Tôn, trong năm thủ uẩn, có sự sai khác về dục và tham?”. Đức Phật trả lời: Có sự khác nhau trong niềm đam mê năm uẩn. Lúc thì ta thích cảnh vật chất, lúc thì ta thích cảnh trừu tượng. Tùy trình độ, tùy phước nghiệp, tùy hoàn cảnh mà sự ham thích khác nhau. Có lúc ta thích nghe, có lúc ta thích nhìn, có lúc ta thích ngửi. Bước vào nhà bếp là lưỡi làm việc; vào nhà tắm thường là mũi làm việc (mỹ phẩm, nước hoa); vào phòng ngủ phải êm, ấm; lên xe xịn thì sắc (sang, sạch, đẹp), thinh (đóng cửa kiếng, âm thanh lặng ngắt), khí (mùi thơm), xúc (ngồi êm và ấm, mát)… Có người thích sống nhiều về tinh thần, có kẻ nặng về vật chất, đó là sự khác nhau trong tham dục. 

Càng tu tập thì đối tượng ưa thích càng giảm, không ‘ăn tạp’ (thích đủ thứ) nữa, nhờ vậy ít bệnh. Mỗi thứ ta thích đều kéo theo vô số hệ lụy, bớt thích thì bớt hệ lụy. Tôi không phải hành giả cũng không phải thiền sư nhưng tôi có niềm an lạc đó là có khả năng sống một mình, chìm sâu trong thế giới của tôi, tôi rất ngại cảnh tụ năm tụ ba, tôi sợ đám đông, thấy có thêm là có hệ lụy. Bà Gotami hỏi Đức Phật: Bạch Thế Tôn nếu mai này Thế Tôn không còn nữa, ai cũng nhận lời họ nói ra là lời Phật thì chúng con dựa vào đâu để xác định đó là lời dạy của Thế Tôn? Đức Phật dạy, có tám tiêu chuẩn người đời sau có thể xác định có phải lời Phật hay không: pháp môn nào càng đi theo càng được an lạc, càng hành trì càng nhàm chán đám đông, càng hành trì càng trở thành người dễ nuôi (thích nghi trong mọi hoàn cảnh). “Người giàu nhất không phải là người có tất cả mà là người có khả năng thích nghi tất cả”.

Đoạn 7. “Dưới hình thức nào, bạch Thế Tôn, có định nghĩa về uẩn của các uẩn?” Nghĩa là: Dựa vào đâu nói về các uẩn? Nhìn vào thời điểm xuất hiện của năm uẩn mà Ngài nói về năm uẩn. Uẩn quá khứ là những gì đã có rồi mất. Uẩn vị lai là những gì sẽ có, chưa có. Uẩn hiện tại là những gì đang có, đang diễn ra, đang tồn tại. Qua cách nói này Ngài nhấn mạnh khía cạnh vô thường của năm uẩn. Toàn bộ thế giới này chỉ là cái gì đó có rồi mất. Hôm qua từng được xem là hôm nay, nhưng nay đã là dĩ vãng. Hôm nay rồi sẽ bị gọi là hôm qua, ngày mai rồi cũng sẽ bị gọi là hôm trước.

Đức Phật nói đến năm uẩn qua khía cạnh ba thời là Ngài nói đến dòng chảy phũ phàng và khốc liệt của danh sắc. Khoa học cũng phân tích về vũ trụ, về con người, Phật pháp cũng phân tích về vũ trụ và con người nhưng là cách phân tích cho người muốn lìa bỏ, muốn ra đi.

Đoạn 9. Vị tỳ kheo hỏi: Bạch Thế Tôn, dựa vào đâu mà gọi là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn? Đức Phật dạy: Dựa vào bốn đại mà gọi là Sắc uẩn. Dựa vào sáu xúc mà có Thọ uẩn. Từ xúc mà có Tưởng uẩn, Hành uẩn. Từ sự cộng hưởng của danh sắc mà có Thức uẩn, như có mắt và cảnh sắc mới có nhãn thức.

TRĂNG RẰM (tiếp theo)

Chúng ta trở lại bài kinh Trăng Rằm, hôm đó chúng tôi giải thích dở dang. Bài kinh Trăng Rằm có nhiều đoạn:

Đoạn 1. Năm thủ uẩn là gì.

Đoạn 2. Năm uẩn lấy gì làm chỗ dựa.

Đoạn 3. Sự chấp thủ nằm trong hay ngoài năm uẩn.

Đoạn 4. Có sự sai khác nào trong niềm đam mê năm uẩn.

Đoạn 5. Dựa vào đâu đề cập về năm uẩn.

Đoạn 6. Giải thích năm uẩn.

Đoạn 7. Thân kiến là gì? Là sự chấp ngã trong năm uẩn.

Đoạn 8. Chuyện cần làm đối với năm uẩn (cần thấy, cần bỏ, cần có).

Đoạn 9. Quán chiếu năm uẩn thế nào để chấm dứt phiền não.

Đoạn 10. Phá nghi cho một tỳ kheo.

Bài kinh này là bài kinh căn bản cho giáo lý Phật pháp, đồng thời cũng là bài kinh căn bản cho tất cả những người muốn tìm hiểu về giáo lý và cũng là bài kinh căn bản cho hành giả Tứ Niệm Xứ. Chính Đức Phật xác nhận nhiều lần, suốt thời gian hoằng pháp 45 năm của Ngài, chỉ nói đến hai vấn đề, khổ và diệt khổ.

Có một bài kinh này rất thú vị, một tỳ kheo hỏi Đức Phật: Bạch Thế Tôn, làm thế nào để chấm dứt đau khổ? Ngài dạy, chỉ cần thấy cái gì là đau khổ thì sẽ thoát khổ. Đó là năm uẩn, Danh Sắc, 12 Xứ, 18 Giới là sự có mặt của phiền não, tức thái độ nhận thức thương ghét đối với năm uẩn. Toàn bộ những thứ này đều là khổ, trực tiếp hay gián tiếp. Khi thấy được Khổ đế, mới thấy được Tập, Diệt, và Đạo. Biết mình đang lạc đường mới nghĩ đến việc tìm đường đúng mà đi. Biết mình bệnh mới có thể chữa bệnh.

Trước hết là phải thấy được vấn đề của mình thì mới giải quyết được vấn đề, nếu không thấy thì làm sao giải quyết được. Có một chuyện nhỏ sáng nay, tôi phải dọn cái bàn để đặt cái máy bắt đầu buổi giảng. Mấy hôm nay nhà có khách, trên bàn có một ít thứ vặt vãnh như một hộp kẹo, một hộp bánh, tách trà, khách đi rồi còn nằm ở đó. Phía dưới có bụi mà không lau được. Nhìn thấy cái bàn ớn quá mà không biết bắt đầu từ chỗ nào, tôi đứng suy nghĩ một lát tôi thấy chuyện đầu tiên phải dời những thứ này đi trước mới có chỗ trống lau bụi, lau xong rồi mới ra ngoài kia lấy cái máy vô để đó ghim điện. Có người cười thầm sao chuyện dọn bàn khó như vậy. Rất là khó, mới liếc qua là nhức đầu rồi. Tôi nghĩ đầu tiên là phải đi tìm vấn đề của cái nhức đầu, rồi dọn nó trước. Nếu không tìm ra cái căn cơ, nền tảng vấn đề thì làm sao giải quyết được nó đây. 

Phải biết sự có mặt của mình trên đời là khổ, khi biết được như vậy thì mới nghĩ đến chuyện giải quyết nó. Vì vậy, muốn biết làm thế nào để thoát khổ thì trước hết phải thấy được cái gì là đau khổ. Ở đây, thấy sự có mặt của năm uẩn, 12 Xứ, 18 Giới, Danh Sắc, phiền não là khổ. Phiền não là thái độ thích hay ghét đối với năm uẩn. Nói chi pháp thì Khổ – Tập là hai nhưng nói tổng quát thì Khổ – Tập chỉ là một vấn đề Khổ. Ví dụ, bịnh và nguyên nhân sinh bịnh là khác nhau, nhưng khi cần chỉ nói một vấn đề: bịnh hoạn. 

Vì vậy, chính Đức Phật nói: Trong cả đời hoằng pháp ta chỉ nói hai vấn đề: Khổ và con đường thoát Khổ. Lúc này bốn Đế chỉ còn lại hai vấn đề: Khổ – Tập là một; Diệt – Đạo là một. 

Đối với Khổ, cần nhận thức. Đối với Tập, cần diệt trừ. Đối với Diệt đế, cần chứng ngộ. Đối với Đạo đế thì cần tu tập để chứng ngộ Diệt đế. Nói chi tiết là như vậy. Tập đế là niềm đam mê trong Khổ đế. Khổ đế là mọi hình thức tồn tại, hiện hữu. Diệt đế gồm có hai: Hữu dư Niết bàn thì vắng mặt Tập đế, Vô dư Niết bàn thì vắng mặt cả Khổ và Tập đế. Đạo đế là con đường thoát khổ vốn nằm trong Khổ đế. 

Con chó, con chuột đam mê trong đời sống của con chó con chuột; ông hoàng đế có những đam mê của hoàng đế; kỹ nữ, ăn cướp, mỗi một hoàn cảnh sống đều có đam mê trong đó, bằng cách này hay cách khác, kể cả những người mở miệng ra là nói “tôi giờ không thích cái gì”. Nhìn họ tôi nhớ câu nói của ông cậu của ngài Xá Lợi Phất, Dighanakha (Trường trảo = móng tay dài). Ông này gặp Đức Phật và nói: Thưa Sa-môn Gotama sao con không thích cái gì trên đời này, không có gì trên đời này làm cho con thích. Ông ta nói vậy với mong đợi Ngài khen và cũng nghĩ mình giống như Ngài. Đức Phật trả lời: Ông nói rằng ông không thích cái gì hết nhưng ông có thấy thích thú vừa lòng trong cái suy nghĩ đó không? Không thích là vì chưa gặp đúng cái món mình thích, và còn tùy hoàn cảnh đồng tiền, sức khỏe, gia đình, những nhân tố trong đời sống của mình có vấn đề hay không, cho phép mình thích hay không. Một anh chàng nhà quê chân phèn không biết gì trong giới thượng lưu nên tưởng mình không thích; cứ nghĩ là uống rượu đế ăn cá nướng ngồi ngoài ruộng thoải mái hơn ngồi khách sạn năm sao uống rượu Tây có hoa hồng, nhạc nhẹ, nến thơm.

Nội dung bài kinh này, một vị tỳ kheo là thầy dạy của năm trăm vị tỳ kheo khác, trong một pháp hội, đã đặt ra chín vấn đề lớn để hỏi Thế Tôn. Đó là những câu hỏi mang ý nghĩa đúc kết giáo lý trong nhận thức và nền tảng để hành trì. Muốn đi theo một tôn giáo, đường lối, tôn chỉ nào đó trước hết phải có nhận thức đó là gì, tại sao mình theo. Trong đạo Phật, mọi sự không dừng lại ở đó, sau nhận thức là phải sống theo nhận thức đó, đó là hành trì.

*Ba bước đi trong Phật pháp:

Pariyatti: lý thuyết để nhận thức.

Paṭipatti: sự hành trì dựa trên nhận thức đó.

Paṭivedha: sự chứng nghiệm có được từ việc hành trì.

Từ thời rất xưa, các vị tiền bối của Nam tông VN gọi ba bước này là pháp học, pháp hành và pháp thành.

Bài kinh này gồm mười đoạn, có nội dung đủ để hỗ trợ cho cả ba bước đi này. Hành giả Tứ Niệm Xứ cũng cứ theo bài kinh này, người nghiên cứu Phật pháp cũng bắt đầu từ bài kinh này, người sơ cơ không biết gì về Phật pháp đọc bài kinh này cũng sẽ biết thế nào là khổ, mình là ai, từ đâu đến, sẽ đi về đâu.

Năm uẩn là gì?

Y cứ bốn đại gọi là sắc uẩn. Tôi nói điều này quí vị sẽ sốc. Mình học chút ít khoa học, Phật pháp biết lơ mơ nên mình thấy danh thì mơ hồ trừu tượng, sắc pháp là những gì mình sờ chạm. Tại sao gọi là ngũ uẩn giai không? Tại sao cái gì cũng gọi là không hết? Suññatā. Tiếng Mỹ là ‘Mtness’, ‘emptiness’. Cái gọi là Cái gọi là niềm vui gồm có hai: thiện thọ hỷ và tham thọ hỷ. Tâm nào cũng có mấy chục tâm sở (mental factors) trong đó. Nỗi khổ niềm đau của chúng sinh cũng chỉ là hai tâm sân hoặc tâm thân thức thọ khổ. Thất tình, làm ăn thua lỗ, thất tình, mang tiếng, bãi nhiệm … tất cả những nỗi buồn đó chỉ có hai tâm sân hoặc tâm thân thức thọ khổ. 

Giai không nghĩa là đem chia ra thì không còn gì hết, đó là tinh thần. Còn về vật chất, khi mình cầm cái ly trên tay, mình sờ chạm nó được, biết nó nóng lạnh cứng mềm, thô nhám hay trơn láng… Trọng lượng của cái ly này là 25g. Chia 25g này ra một tỷ, lấy một phần tỷ chia tiếp, chia đến tận cùng còn lại một đơn vị nhỏ nhất là photon. Cái mình gọi là vật chất, khi chia đến tận cùng bằng số thì mình không còn sờ chạm được nữa, chỉ còn là cảm nhận, hình dung, liên tưởng về nó mà thôi. Nghĩa là, cuối cùng rồi thì vật chất cũng chỉ là những trạng thái. Trạng thái là gì? Đất là cái gì cho ta cảm giác cứng mềm. Nước là cái gì tạo nên hiện tượng tan chảy và ngưng tụ. Lửa (theo trong A-tỳ-đàm) là cái gì mà ta gọi là nhiệt độ dù lạnh hay nóng. Gió trong Phật pháp, nói rốt ráo là cái gì tạo nên các hiện tượng áp suất, xê dịch (còn gọi là “sự căng phồng”).

Dựa vào cái gì mà có năm uẩn? Dựa vào bốn đại mà gọi đó là sắc uẩn. Do có sự tiếp cận giữa sáu căn với sáu trần nên mới có thọ uẩn (feelings), cũng từ xúc mà có tưởng uẩn (perception). Từ sáu xúc mà có hành uẩn, tức các khía cạnh thiện ác (good or bad factors) trong tâm. Từ 6 xúc có 6 tưởng, 6 thọ, 6 hành. Do có 6 căn và 6 trần cộng lại mới có sáu thức, tức thức uẩn.

Tôi không dám mở lời, tôi nói rằng tôi ước có lớp A-tỳ-đàm, tôi đã có lớp Kinh Tạng này mà thêm lớp A-tỳ-đàm nữa là tôi chết. Muốn học A-tỳ-đàm thì phải ngưng lớp Kinh Tạng chớ một tuần đã mất của tôi đã ba ngày lẻ rồi. Nói đừng buồn chớ cái người của mình cũng trời ơi đất hỡi lắm. Mình dạy mà mình không thấy mặt, mình giảng sơ sài thì không được mà giảng chi tiết thì… Cho đến hôm nay tôi vẫn nghĩ rằng hơn một nửa trong đây không hiểu cái khỉ gì hết hoặc đang ngủ. Cho nên tôi mất hứng dữ lắm. Bữa nay tôi bị ràng buộc vấn đề thời gian, cái công mình đã đi một năm rồi. Cũng gần xong rồi, tôi cũng mong trong đời của tôi, tối thiểu cũng giảng gần hết Kinh Tạng. Trung Bộ tôi giảng ba lần, 152 bài. Trường Bộ tôi giảng một lần, 34 bài. Bây giờ thêm một lớp Tương Ưng 7700 bài nữa thì coi như một đời mình ăn cơm của người ta mình trả bao nhiêu đó cũng được rồi. Bây giờ đã đi được một năm rồi.

Thân kiến (sakkāya) là gì? Thân kiến là sự lầm tưởng năm uẩn là Tôi, Của Tôi. Ahaṅkārachấp rằng đây là chấp rằng đây là Tôi, Tôi là cái này, cái nọ. Mamaṅkārā là chấp rằng đây là Của Tôi. Phải là vị sơ quả Tu-đà-hoàn mới chấm dứt được thân kiến. Có khi mình không hề nghĩ đến hai chữ “tôi, của tôi”, nhưng mình nhìn về cuộc đời này luôn luôn từ góc độ “tôi, của tôi”. Chính vì luôn nhìn mọi sự trên cuộc đời này từ góc nhìn “tôi, của tôi” nên mới có sự thích (tham) và ghét (sân). Si thì luôn theo sát hai phiền não đó. Quí vị thử đi, khi gặp nhau trong một thời điểm hoàn cảnh lẽ ra phải chào mà họ làm lơ thì mình nghĩ sao. Nếu mình thấy quê, thấy bực, thì phải chánh niệm, à thì ra mình đối diện vấn đề từ góc nhìn “tôi, của tôi”. Khi còn thân kiến, chúng ta luôn luôn trong trạng thái của một con chó dữ, luôn sẵn sàng phản ứng với tất cả những gì mình thấy, mình nghe. 

Ngày chưa biết đạo mình trách đủ thứ, biết đạo rồi mình giữ giới, bắt đầu có búa trong tay, mình dùng búa để đập thân nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp bất thiện; mình tu tập thiền chỉ để có cái búa Tâm sở định đập năm Triền Cái, mình tu thiền Quán đập Ái, Mạn, Kiến; nhưng khổ một chỗ, đập tan hoang rồi còn một cái không cách nào đập được đó chính là cái búa trên tay. Ngày xưa mình thích tiền bạc, thích danh, thích nhan sắc, thích sức khỏe, giờ hiểu đạo, không thích gì hết, trong đầu mình chỉ có Tam bảo, đi đứng nằm ngồi chánh niệm tỉnh giác. Có một điều: tôi đang ngon lành, tôi đang tu, tôi đang hiểu được lý tam tướng, tôi đang hiểu được lý duyên khởi, trong khi những người kia họ không được như tôi. Họ may mắn mang thân người nhưng không biết Phật pháp. Họ biết Phật pháp nhưng chỉ biết cúng bái cầu lộc chứ không biết học hỏi giáo lý. Họ học hỏi giáo lý nhưng không biết hành trì giáo lý. Riêng tôi, được thân người, được học chánh pháp, tôi học giáo lý; tôi có hành trì, có giới, có định, có tuệ; đây là công đức của tôi, đây là sự thành tựu của tôi, không bao lâu nữa tôi sẽ đắc chứng, đắc chứng đạo quả của tôi, Niết bàn của tôi, sự giải thoát của tôi … Đập tan hoang hết nhưng cuối cùng tôi còn chừa lại cái búa của tôi! Không ai hiểu được lý vô ngã như là tôi, không ai hiểu được lý duyên khởi như là tôi… Cuối cùng, tôi cũng như bao nhiêu cái tôi khác.

Cái gì là chuyện cần làm đối với năm uẩn?

Trước hết ta phải thừa nhận rằng, trong năm uẩn có ngọt, có đắng. Vị ngọt của năm uẩn là cái gì khiến ta ham thích, người không học đạo khi nhìn về cuộc đời, tức năm uẩn, chỉ thấy được khía cạnh đầu tiên và duy nhất này. Vị đắng của năm uẩn là những gì khiến ta đau và khổ ở thân hay tâm. Adīnava, chữ này ngài Minh Châu dịch là ‘nguy hiểm’, nhưng ta phải hiểu là vị đắng hay bề trái. Phải thấy được cái ngọt là phù du. Phải thấy được cái đắng là cái đáng chán đáng sợ. Từ đó mới có sự ly tham để lìa bỏ (‘nissarana’: ‘xuất ly’; ‘assāda’: ‘vị ngọt’). Toàn bộ hành trình tu học là nhận thức được rằng mọi hiện hữu là khổ (trong đó có cả ngọt lẫn đắng), từ đó nhàm chán và lìa bỏ. Việc phải làm đối với năm uẩn là vậy.

Ở đây Đức Phật dùng ngôn ngữ của vị Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài dùng chữ “vô thường biến đổi” cho chữ “bề trái của năm uẩn”, Ngài không tả rõ trong bài kinh này. Vô thường của Sắc uẩn là lúc nó trẻ, lúc nó già, lúc nó tươi, lúc nó héo. Vô thường của Thọ uẩn là lúc vui lúc buồn mà ai cũng thấy rằng đời sống này buồn nhiều hơn vui. Vô thường của Tưởng uẩn: thọ, tưởng, hành không rời nhau, nên nói thọ vô thường thì tưởng, hành cũng vô thường. Ví dụ, nhớ một kỷ niệm cũ mình thấy thích quá, nhưng bây giờ nó không còn nữa, đó là sự vô thường về danh uẩn. Cách đây mấy phút, nghĩ cái đó thấy vui mà bây giờ lại buồn, lại đau, lại nhớ vì không còn nữa. 

Không có niềm vui nỗi buồn nào kéo dài thiên thu, và sự hạnh phúc an lạc cũng không kéo dài thiên thu. Mọi thứ phải đắp đổi cho nhau. Vì vậy Lão Tử mới nói: Khi gặp chuyện buồn lo thì hãy nhớ sau đó chắc chắn sẽ là chuyện vui và khi vui thì phải nhớ sau chuyện vui chắc chắn là chuyện buồn. Hồi đó tôi đọc cái đó tôi khó chịu lắm, sao lại dám xài chữ ‘chắc chắn’. Nhưng đúng là như vậy, khi cái buồn đi đến tận cùng thì nó sẽ hết buồn và cái vui đi đến tận cùng thì nó sẽ hết vui. Và đời sống này chỉ gồm hai thứ buồn vui đó thôi. Đó là sự vô thường của danh uẩn gồm thọ, tưởng, hành. 

Và thức cũng vậy, sự vô thường của thức là lúc phải thấy cái này, lúc phải nghe cái kia, có lúc không được đầy đủ sáu căn, (bị khiếm khuyết chẳng hạn). Sự vô thường của thức uẩn là cái tâm nào của mình rồi cũng có lúc biến mất,xuất hiện rồi biến mất, dầu muốn dầu không ta không thể kéo dài sự tồn tại của nhãn thức trong một ngày, trong một tháng, trong một năm. Cho nên ở đây phải hiểu bề trái của năm uẩn (nói ngắn gọn) là sự vô thường. Thấy được như vậy thì mới có ly tham, và từ ly tham mới có giải thoát (ly tham tức là buông).

Nên nhận thức ra sao về năm uẩn để chấm dứt ý niệm chấp ngã? (Đoạn 13).

Vị tỳ kheo hỏi nên nhận thức ra sao về năm uẩn để chấm dứt ý niệm chấp ngã. Ngài dạy: Nên quán chiếu rằng năm uẩn trong mọi tình trạng, hoàn cảnh, thời điểm đều là vô ngã, vô thường, có 11 trường hợp.

(Tôi cố ý dịch lại hết chứ ngó nguyên chánh kinh thì ‘phê’ lắm, như chén thuốc Bắc. Tôi gom chén thuốc Bắc thành một viên thuốc tễ thôi, còn đưa cho quí vị một tay viên xí muội, một tay miếng cam thảo nữa. Tới nước này mà không chịu hả họng cho tui dzọng dzô thì không biết bao giờ hết bệnh.)

Quán chiếu rằng năm uẩn trong mọi tình trạng, hoàn cảnh, thời điểm nghĩa là cái gì thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, xa, gần, thô, tế, thắng (tốt), liệt (xấu)… hoàn cảnh nào đi nữa cũng là vô ngã vô thường. Mình có là ăn mày, du đãng, kỹ nữ, thầy tu… gì đi nữa thì năm uẩn cũng luôn luôn trong tình trạng vô ngã, vô thường. Trong trường hợp đó, với cách quán chiếu này cộng với sự đầy đủ Ba-la-mật thì chấm dứt được ý niệm chấp ngã. Ý niệm chấp ngã nghĩa là sự nhìn về thế giới, nhìn về con người, nhìn về chúng sinh từ góc độ tôi, của tôi.

Không có tôi, của tôi, vậy ai là người tạo nghiệp thiện ác và ai sẽ là người chịu quả thiện ác?

“14) Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo khác khởi lên suy nghĩ sau đây: “Nếu Ngài nói sắc là vô ngã, thọ… tưởng… các hành… thức là vô ngã, thời các nghiệp do vô ngã tạo ra, thời ngã nào lãnh thọ?”

Đoạn 14 là thắc mắc của một tỳ kheo trong pháp hội này mà cũng là thắc mắc của 99.9% người Phật tử.

Sau khi nghe Đức Phật giảng, vị này suy nghĩ như sau, nếu Thế Tôn dạy rằng mọi sự đều lắp ráp, mọi sự đều là vô ngã, vô thường, không có tôi và của tôi, vậy thì ai là người tạo nghiệp thiện ác và ai sẽ là người chịu quả thiện ác (quả khổ, quả vui)?

Đức Phật nhắc lại, không cần thiết phải có người tạo nghiệp và hưởng quả mà tất cả đều là sự vận hành của năm uẩn. Không do ai làm và chịu hết.

Vị tỳ kheo này theo thói quen nghĩ rằng phải có người làm việc thiện, phải có người làm việc ác rồi khi quả trổ rồi thì phải có người hưởng chứ. Ngài dạy rằng không cần phải có ai hết, mà ở đây toàn bộ là năm uẩn.

Ví dụ như có một ông thợ máy nói với tôi như thế này: “Sư ơi, cái xe năm bảy trăm ngàn mà tháo nó ra thì cũng y chang như mấy cái xe kia vậy thôi, cũng là một đống đồ parts, phụ tùng thôi.” Tôi nói: “Ông nói vậy tôi không đồng ý, cái xe nào cũng là lắp ráp vậy cái gì chạy trên đường? Ông nói trên đời không có cái gì là xe hết, toàn đồ ráp, vậy hồi nãy ông tới đây bằng gì, rồi chiều nay ông chở vợ con đi chùa bằng cái gì? Một lát nữa ông rời đi bằng cái gì? Sáng nay trên xa lộ có hai cái gì tông nhau rồi chết bốn người, không có xe thì đó là cái gì?”

Có người hỏi tôi tại sao phải phân tích ra làm gì vậy; có xe hay không có xe thì có khác chi nhau? Khác nhau xa lắm! Khi ta hiểu mọi thứ là lắp ráp thì thái độ của ta đối với chuyện đời sẽ khác đi. Dĩ nhiên, cái hiểu đó phải có được từ đời sống, từ sự thấm thía, thể nghiệm, thân chứng sau một quá trình chánh niệm liên tục; phải là một nhận thức không vay mượn từ sách vở hay băng giảng, không từ một người nào khác; phải do chính mình.

Ví dụ như nhà tôi gần biển, buổi trưa quí vị hỏi tôi ở đây có gần biển không, buồn quá, ra đó chơi. Tôi nói, xe hư rồi, giờ ra đó phải đi bộ, mà xa lắm, nóng muốn chết luôn. Bữa nay gần 40 độ C, khoảng 100 độ F, hai bên toàn cát không, ở đây mà đi ra đó là gần 3 cây số, rồi đi bộ trở về nữa, ông nghĩ làm sao mà ra đó chơi. Tôi nói như vậy thì ổng không đủ sợ. Ổng cứ đi. Khi đi rồi thì ổng mới biết thế nào là sức nóng gần 100 độ F. Dưới chân thì cát nóng, trên đầu thì nắng rát mặt, người mệt lả dần. Ra chưa tới biển mà nhìn thấy hoa nắng chập chờn, chập chờn trong không khí. Lúc đó cái sợ này là cái sợ của quí vị, chứ hồi nãy trong nhà tôi nói mà quí vị không ngán. Khi quí vị đi rồi quí vị mới thấy. 

Tôi cố ý dài dòng để cho quí vị thấm thía chỗ này. Khi quí vị nghe giảng kinh thì không bằng quí vị tu tập Tứ Niệm Xứ, khi ngồi xuống theo dõi, biết rõ, biết ngồi xuống, biết mông chạm, biết hai đầu gối chạm. Biết xong rồi ngồi yên theo dõi hơi thở, biết hơi thở ra vô, đang nhớ chuyện gì đó, biết phóng tâm; vui quá biết cái vui này là tâm tham, cái vui này là tâm thiện v.v… Khi theo dõi một thời gian quí vị sẽ thấy cái tâm không đứng yên. Theo dõi một lát thì bắt đầu thấy cái lưng đau, đầu gối đau như ai chẻ xương vậy. Khi theo dõi rồi thấy vấn đề đổ đến dồn dập như vậy quí vị mới biết thì ra năm uẩn này là gánh nặng. Còn bây giờ quí vị không tu cái gì hết, ngày nào cũng vô nghe giảng ngáp lên ngáp xuống thì không cách chi thấy năm uẩn là gánh nặng. Chỉ có làm như tôi vừa nói mới thấy năm uẩn là gánh nặng. Mà lạ lắm, khi thấy năm uẩn là gánh nặng bằng sự thực chứng của mình, khi nhận ra nó là gánh nặng thì cũng là lúc quí vị bỏ từ từ gánh nặng đó, gánh nặng bắt đầu nhẹ dần, dù chưa có đắc gì hết. Cái này thì không cách nào cảm nhận được trừ phi mình tu chánh niệm.

Còn như hồi đó đến giờ mình không thấy gì hết, cứ lăng xăng lăng xăng ăn chè ăn cháo, vui chơi, mua sắm, tưởng là vui, nhưng không! Mai này sống chánh niệm một chút thì sẽ thấy rằng những thứ đó thật sự là tào lao, thật sự là không cần thiết. Tôi không phải là thiền sư, tôi không phải là hành giả, tôi bê bối dễ duôi, phóng dật, nhưng trong trường hợp này quí vị phải tin tôi: Không có sống chánh niệm thì đừng hòng hiểu Phật nói cái gì, hiểu lan man thì ok, nhưng hiểu thấm thía thì chỉ có người sống chánh niệm.
_________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.