Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (15)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (15)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[22] Chương I: Tương Ưng Uẩn (d)

III. Phẩm Những Gì Ðược Ăn

IX. Pàrileyya (Tạp 2, Ðại 2,13c) (S.iii,94)

1) Một thời Thế Tôn ở Kosambi, tại vườn Ghosita.

2) Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Kosambi để khất thực. Khất thực xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, Ngài dọn dẹp chỗ nằm của mình, cầm y bát, không gọi thị giả, không tin cho chúng Tăng biết, một mình, không có người đi theo, ra đi du hành.

3) Rồi một Tỷ-kheo, khi Thế Tôn đi chưa bao lâu, liền đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, nói với Tôn giả Ananda:

-- Này Hiền giả Ananda, Thế Tôn tự sắp xếp sàng tọa của mình, cầm y bát, không gọi thị giả, không tin cho chúng Tăng biết, một mình, không có người đi theo, ra đi du hành.

4) -- Này Hiền giả, trong khi Thế Tôn tự sắp xếp sàng tọa của mình, cầm y bát, không gọi thị giả, không tin cho chúng Tăng biết, một mình, không có người đi theo, ra đi du hành; trong khi ấy, Thế Tôn ưa sống một mình; trong khi ấy, Thế Tôn không muốn ai đi theo Ngài.

5) Rồi Thế Tôn tuần tự du hành, đi đến Pàlileyyaka. Tại đây, Thế Tôn trú ở Pàlileyyaka, dưới gốc cây bhaddasàla.

6) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.

7) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Ananda:

-- Ðã lâu lắm, này Hiền giả Ananda, chúng tôi chưa được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp. Chúng tôi muốn, này Hiền giả Ananda, được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp.

8) Rồi Tôn giả Ananda cùng với các Tỷ-kheo ấy đi đến Pàlileyyaka, gốc cây bhaddasàla, chỗ Thế Tôn ở; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

9) Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho các Tỷ-kheo ấy, giảng giải, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.

10) Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo sanh khởi suy nghĩ như sau: "Biết như thế nào, thấy như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?"

11) Thế Tôn với tâm của mình biết được suy nghĩ của Tỷ-kheo ấy, liền nói với các Tỷ-kheo:

-- Này các Tỷ-kheo, pháp đã được giải thích, thuyết giảng. Bốn niệm xứ đã được giải thích, thuyết giảng. Bốn chánh cần đã được giải thích, thuyết giảng. Bốn như ý túc đã được giải thích, thuyết giảng. Năm căn đã được giải thích, thuyết giảng. Năm lực đã được giải thích, thuyết giảng. Bảy bồ-đề phần đã được giải thích, thuyết giảng. Thánh đạo Tám ngành đã được giải thích, thuyết giảng. Như vậy, này các Tỷ-kheo, pháp được Ta giải thích, thuyết giảng.

12) Dầu cho, này các Tỷ-kheo, các pháp được Ta giải thích, thuyết giảng như vậy, nhưng ở đây có Tỷ-kheo khởi lên suy nghĩ sau đây: "Biết như thế nào, thấy như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?"

13-16) Này các Tỷ-kheo, biết như thế nào, thấy như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức? Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, sự quán như vầy là hành. Hành ấy lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì sanh, lấy gì làm hiện hữu? Ðối với kẻ vô văn phàm phu, này các Tỷ-kheo, cảm xúc bởi thọ sanh ra do xúc chạm với vô minh, khát ái sanh. Từ khát ái ấy, hành ấy sanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hành ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Khát ái ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Thọ ấy... xúc ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Vô minh ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Do biết vậy, do thấy vậy, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức.

17) Vị ấy có thể không quán sắc như là tự ngã, nhưng có thể quán tự ngã như là có sắc. Sự quán ấy, này các Tỷ-kheo, là hành. Hành ấy lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì sanh, lấy gì làm hiện hữu? Ðối với kẻ vô văn phàm phu, này các Tỷ-kheo, cảm xúc bởi thọ sanh ra do xúc chạm với vô minh, khát ái sanh. Do khát ái ấy, hành ấy sanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hành ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Khát ái ấy... thọ ấy... xúc ấy... vô minh ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Do biết vậy, thấy vậy, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức.

18) Vị ấy có thể không quán sắc như là tự ngã, không quán tự ngã như là có sắc, nhưng có thể quán sắc ở trong tự ngã. Quán ấy, này các Tỷ-kheo, là hành. Hành ấy lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì sanh, lấy gì làm hiện hữu? Ðối với kẻ vô văn phàm phu, này các Tỷ-kheo, cảm xúc bởi thọ sanh ra do xúc chạm với vô minh, khát ái sanh. Do khát ái ấy, hành ấy sanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hành ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Khát ái ấy... thọ ấy... xúc ấy... vô minh ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Do biết vậy, thấy vậy, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức.

19) Vị ấy có thể không quán sắc như là tự ngã, có thể không quán tự ngã như là có sắc, có thể không quán sắc ở trong tự ngã, nhưng có thể quán tự ngã ở trong sắc. Sự quán ấy, này các Tỷ-kheo, là hành. Hành ấy lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì sanh, lấy gì làm hiện hữu? Ðối với kẻ vô văn phàm phu, do cảm xúc bởi thọ sanh ra do xúc chạm với vô minh, khát ái sanh. Do khát ái ấy, hành ấy sanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hành ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Khát ái ấy... thọ ấy... xúc ấy... vô minh ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Do biết vậy, thấy vậy, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức.

20-21) Vị ấy có thể không quán sắc như là tự ngã, có thể không quán tự ngã như là có sắc, có thể không quán sắc ở trong tự ngã, có thể không quán tự ngã ở trong sắc. Nhưng có thể quán thọ như là tự ngã, và có thể quán tự ngã như là có thọ, có thể quán thọ ở trong tự ngã, và có thể quán tự ngã ở trong thọ.

22-23). .. có thể quán tưởng... có thể quán các hành...

24). .. có thể quán thức như là tự ngã, có thể quán tự ngã như là có thức; có thể quán thức ở trong tự ngã; và có thể quán tự ngã ở trong thức. Sự quán ấy, này các Tỷ-kheo, là hành. Hành ấy lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì sanh, lấy gì làm hiện hữu? Ðối với kẻ vô văn phàm phu, do cảm xúc bởi thọ sanh ra do xúc chạm với vô minh, khát ái sanh. Do khát ái ấy, hành ấy sanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hành ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Khát ái ấy... thọ ấy... xúc ấy... vô minh ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Do biết vậy, thấy vậy, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức.

25) Vị ấy có thể không quán sắc như là tự ngã; có thể không quán thọ như là tự ngã; có thể không quán tưởng... không quán các hành... không quán thức như là tự ngã. Nhưng có thể có (tà) kiến như sau: "Ðây là tự ngã, đây là thế giới; sau khi chết, tôi sẽ trở thành thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại". Nhưng thường kiến ấy, này các Tỷ-kheo, là hành. Hành ấy lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi... Do biết như vậy, thấy như vậy, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức.

26) Vị ấy có thể không quán sắc như là tự ngã; không quán thọ... không quán tưởng... không quán các hành... không quán thức là tự ngã; có thể không có (tà) kiến như sau: "Ðây là tự ngã, đây là thế giới; sau khi chết, tôi sẽ trở thành thường còn, thường hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại". Nhưng vị ấy có thể có (tà) kiến như sau: "Nếu trước ta không có, thời nay không có của ta. Nếu ta sẽ không có, thời sẽ không có của ta".

27) Ðoạn kiến ấy, này các Tỷ-kheo, là hành. Nhưng hành ấy, lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì sanh khởi, lấy gì làm hiện hữu? Ðối với kẻ vô văn phàm phu, này các Tỷ-kheo, do cảm xúc bởi thọ sanh ra do xúc chạm với vô minh, khát ái sanh. Do khát ái ấy, hành ấy sanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hành ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Khát ái ấy... thọ ấy... vô minh ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Do biết vậy, thấy vậy, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức.

28) Vị ấy có thể không quán sắc như là tự ngã... không quán thọ... không quán tưởng... không quán các hành... không quán thức như là tự ngã... không quán tự ngã ở trong thức; không có (tà) kiến như sau: "Ðây là tự ngã, đây là thế giới; sau khi chết tôi sẽ thường còn, thườg hằng, thường trú, không chịu sự biến hoại" ; có thể không có (tà) kiến như sau: "Nếu trước ta không có, thời nay không có của ta. Nếu ta sẽ không có, thời sẽ không có của ta". Nhưng vị ấy có thể nghi hoặc, do dự, không đạt được cứu cánh trong Chánh pháp này.

29) Nhưng này các Tỷ-kheo, sự nghi hoặc, do dự, không đạt được cứu cánh trong Chánh pháp này là hành. Hành ấy lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì sanh, lấy gì làm hiện hữu? Ðối với kẻ vô văn phàm phu, này các Tỷ-kheo, do cảm xúc bởi thọ sanh ra do xúc chạm với vô minh, khát ái sanh. Do khát ái ấy, hành ấy sanh. Như vậy, này các Tỷ-kheo, hành ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Khát ái ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Thọ ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Xúc ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh. Vô minh ấy là vô thường, hữu vi, do duyên sanh.

30) Này các Tỷ-kheo, do biết như vậy, thấy như vậy, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Những Gì Được Ăn

PĀRILEYYA

Một lần đó có hai vị tỳ kheo xích mích với nhau về sinh hoạt. Một vị tỳ kheo – vốn là Pháp sư giỏi kinh điển – vào trong nhà tắm, vệ sinh cá nhân rồi đi ra mà quên úp gáo nước xuống. Theo Luật là phạm, không úp như vậy thì nước sẽ đọng, đáy gáo bị nhớt, nếu gáo bằng sắt hay đồng thì sẽ bị teng. Một vị tỳ kheo khác – là một vị chuyên về Luật, đi vào sau, thấy vậy khó chịu và kể với người khác. Các đệ tử vị Luật sư này truyền miệng nhau đến tai các đệ tử của vị Pháp sư kia, họ nói chuyện bé mà xé ra to, có một miếng nước trong gáo mà đi nói xấu như vậy không phải là trượng phu. Thế là hai bên hiềm khích và dẫn đến mâu thuẫn lớn, lớn đến mức không thể dàn xếp được, (trong kinh kể là có sự dàn xếp của chư thiên mà không được). Đức Thế Tôn nghe vậy gọi hai phía lên hỏi chuyện. Ngài dạy, nếu có thể thông cảm thì bỏ qua, không nên gây như vậy. Hai vị thưa: “Bạch Thế Tôn, đây là chuyện của chúng con, xin Thế Tôn hãy an dưỡng, sống an lạc đừng bận tâm chuyện của chúng con.”

Quí vị nghe có đã không? Ngài là bậc chí tôn vô thượng, là Bậc Đạo sư, mà họ phản ứng như vậy. Họ kêu Ngài an nghỉ, “rest in peace” đi. Dĩ nhiên Thế Tôn không giận như một vị đạo sư phàm phu. Ngài là một vị Chánh Đẳng Giác, cả thế giới này có kình chống hay có quỳ dưới chân Ngài thì cái tâm của Ngài cũng vậy. Ngài không thấy phiền hà gì hết. Ngài thấy cần nghỉ ngơi và không muốn nghe chuyện đôi bên nữa, nên Ngài đi vào rừng. Trong rừng có một con voi chúa cũng không muốn phiền hà bởi những con voi khác nên cũng tách bầy sống một mình. Con voi gặp được Đức Phật, voi vốn là một vị Bồ tát có linh tánh, rất khôn. Voi không biết Phật là ai nhưng mến con người đang ngồi trước mặt mình nên đã đem trái cây đến cho Đức Phật. Suốt mùa an cư đó không có ngài Ānanda bên cạnh, con voi đó đã cúng dường Ngài suốt mùa. Sau đó chư tăng vào rừng gặp Đức Phật, chư tăng đã vào rừng nhiều lần thăm Ngài, và bài kinh này là một trong những lần đó.

Chuyện các vị tỳ kheo gây gổ ở trên tôi không muốn đi sâu vào chi tiết, vì tôi không muốn kể quá nhiều về chư thiên, về phép lạ, thần thông như nhiều vị thuyết pháp khác. Quí vị vào đọc cuốn Chú Giải Kinh Pháp Cú của ngài Pháp Minh, câu chuyện các tỳ kheo ở Kosambi để biết thêm chi tiết.

Theo tôi, bài kinh này rất sâu, được xem là nội dung của Phật pháp. Khi chư tăng đi vào hầu Phật, Đức Phật thuyết pháp cho họ nghe. Trong chánh tạng chỉ nói là các vị hoan hỉ chớ không nói Ngài giảng điều gì. Trong số chư tăng đó, có một vị suy nghĩ thế này: Mình thấy được cái gì, mình hiểu ra được cái gì, mình nhận thức như thế nào mà để cho phiền não có thể mất được, bởi vì rõ ràng khi đi xuất gia thì cũng hiểu được nhiều điều, nghe Đức Phật và các vị trưởng lão thuyết pháp thì cũng hiểu nhiều điều; khi Đức Phật vừa thuyết pháp xong mình cũng có thêm những nhận thức, nhưng hiểu như thế nào và biết như thế nào thì mới dẫn đến sự chấm dứt phiền não, chứ còn kiểu hiểu như trước đây thì cũng như không.

Có rất nhiều chuyện chúng ta biết nhưng cái biết đó không đủ thay đổi cuộc đời của mình. Ví dụ chúng ta biết thừa cholesterol có thể gây hại cho tim nhưng mình thích cái gì thì cứ ăn cái đó. Thích ăn ngọt thì cứ ăn ngọt còn sự hiểu biết về chuyện tiểu đường không đủ làm cho mình sợ. Cái biết của người học ngành Y, ngành Dược hoặc những người có thân nhân chết vì bệnh nào đó mới đủ làm họ sốc, cái biết trở thành dấu ấn và đủ để họ thay đổi đời sống. Còn cái biết của một anh nhà quê ít học, cái biết của một đứa bé, chỉ nghe người ta nói bớt ăn cái này, kiêng cữ cái kia… đó là cái biết lơ mơ không đủ thấm, cho đến khi nào bác sĩ đưa ra “lời phán quyết” thì mới sốc. 

Phật pháp cũng y như vậy, có những cái thấy cái biết nhưng không làm mình thay đổi, và có những cái thấy cái biết theo cấp độ nào đó đủ để cho mình lìa bỏ phiền não. Biết điều này mới thấy rằng việc thuộc lòng Tam tạng hay tinh thông giáo lý vẫn chưa đi đến đâu, khi nào những nhận thức đó đủ tác động lên nội tâm của mình để mình thay đổi thành con người khác tốt hơn, chánh niệm nhiều hơn, trí tuệ nhiều hơn, khiêm tốn, kham nhẫn giỏi hơn, hành xả giỏi hơn, tín tâm mãnh liệt hơn thì cái biết ấy mới gọi là hữu dụng. Còn những nhận thức có để mà có, để thấy mình hay hơn, giỏi hơn mà con người mình vẫn không khá hơn thì nhận thức đó có vấn đề. Vị tỳ kheo trong bài kinh này suy nghĩ, mình cũng thấy nhiều, biết nhiều sao phiền não vẫn còn y nguyên; mình cần phải biết là hiểu như thế nào, thấy như thế nào để phiền não chấm dứt.

Thế Tôn với tâm của mình biết được suy nghĩ của vị tỳ kheo này nên đã dạy như sau:

Như Lai đã nói rõ về 37 Pháp trợ Bồ đề; là những chuyện nên làm. Toàn bộ giáo pháp của Như Lai chỉ có hai chuyện: chuyện nên làm và chuyện nên tránh. Có nhiều người chỉ nghe Như Lai dạy những điều nên làm và họ đã đắc quả, nhưng có những người phải được nghe Như Lai nói những điều nên tránh thì họ mới đắc. Và có những người phải nghe cả hai: chuyện nên làm và chuyện nên tránh thì họ mới đắc được. Như Lai đã giảng cho các ngươi nghe 37 pháp Bồ đề phần, đó là những chuyện nên làm, gồm Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo, Tứ Như Ý Túc, Ngũ căn, Ngũ lực… đó là những pháp nên hành trì.

Có lúc Phật pháp được trình bày như là những chuyện nên làm, có khi chỉ nói về những việc nên tránh. Ví dụ không nên sát sanh, không nên trộm cắp, không nên dối gian, tham lam sân hận… và rốt ráo nhất là không nên chấp thủ, không nên đam mê nắm níu, bất mãn trong sáu trần, không nên thêm bớt, điều chỉnh cái nhìn của mình đối với sáu trần rồi thích cái này, ghét cái kia.

Phàm phu thường chỉ có hai cách nhìn về bản thân (năm uẩn): bằng thường kiến hay đoạn kiến. Do vô minh trong 4 Đế nên mới dẫn đến ba Hành (Xem lại phần Duyên khởi). Đã là phàm phu thì trong lúc trốn khổ tìm vui chắc chắn lọt vào một trong hai tà kiến: thường kiến và đoạn kiến [1]. Cả hai loại tà kiến này đều có mặt trong chuỗi duyên khởi ở mỗi người, nằm trong Hành, Ái, Thủ, Nghiệp hữu…, người thì nặng về thường kiến, người thì nặng về đoạn kiến. Còn là phàm phu thì ai cũng có chủng tử của hai loại tà kiến này, tùy người mà loại nào mạnh hơn.

Ở bài kinh này Đức Phật dạy: Vị tỳ kheo phải quán chiếu năm uẩn để thấy rằng xưa nay ta sống trong tà kiến và tham ái đối với năm uẩn. Vị ấy thấy rõ năm uẩn là Tam tướng, tham ái, và tà kiến là động cơ chính của dòng duyên khởi; và cả hai loại tà kiến này hay nói chung toàn bộ dòng chảy duyên khởi đều là vô thường, vô ngã.

Ở những bài kinh khác Đức Phật dạy mình quán chiếu năm uẩn là vô thường vô ngã, nhưng ở kinh này Ngài dạy thêm một bước nữa, Ngài dạy rằng hành giả cầu đạo giải thoát phải có khả năng quán chiếu năm uẩn và nhận diện được tà kiến của mình trong năm uẩn. Nhận diện như thế nào? Phải biết rõ đây là thường kiến, đây là đoạn kiến, và biết rõ toàn bộ đời sống này được lắp ráp bởi những nhân duyên gồm: tham ái, vô minh, tà kiến; và bản thân những nhân duyên đó cũng là vô ngã, vô thường.

Một bài kinh khác Đức Phật dạy muốn cầu đạo giải thoát thì phải quán chiếu năm uẩn để thấy rằng bản thân năm uẩn là vô ngã, vô thường; tất cả những đau khổ hay hạnh phúc nào có được từ năm uẩn cũng vô ngã, vô thường.

Một bài kinh khác Ngài dạy rằng phải quán chiếu năm uẩn là vô ngã, vô thường, để thấy khổ hay vui từ năm uẩn cũng vô ngã, vô thường. Thấy được tham ái, tà kiến, vô minh, trong năm uẩn cũng là vô ngã, vô thường; thấy được trí tuệ trong Tam tướng, năm uẩn cũng là vô ngã, vô thường, nhờ vậy không chấp thủ rằng ‘Ta tu tập’, ‘Ta sẽ chứng ngộ’.

Trước khi mình chưa học đạo, mình coi nhan sắc này là của mình, mình đẹp nhất làng, giàu nhất xóm, học giỏi nhất trường… tới khi biết đạo thì thấy những điều đó đều là sương khói. Khi mình vô chùa, mình giữ giới, mình hành thiền mình học giáo lý, nhưng khổ nỗi, khi tu được ba mớ mình thấy mình hay quá sức hay, giỏi quá sức giỏi. Thân người khó được chánh pháp khó gặp trong khi mình thì vừa có thân người vừa gặp chánh pháp, vừa học giáo lý, vừa hành thiền, vừa giữ giới, mình quá sức ngon lành. Nghĩa là mình bỏ sợi xiềng bằng xích để bị trói trong cái xiềng bằng vàng. Rồi sau đó khi mình tu tập Tứ Niệm Xứ, mình có dịp biết thêm nữa, mình thấy rằng giữ giới, bố thí, học giáo lý không chưa đủ, phải chánh niệm tỉnh giác để thấy đi đứng nằm ngồi, buồn vui thiện ác mọi thứ trong đời sống này đều là lắp ráp. 

Khi thấy như vậy mình nói: Tôi hiểu rồi, thân này không phải là tôi, đây là đồ lắp ráp và hôm nay tôi đã có trí tuệ để thấy được điều đó. Mức độ này, theo Đức Phật nói thì giống như con chó bị cột vào cây, dù có cào cắn, quào, quơ cách mấy cũng bị quẩn quanh chỗ bị cột. Cũng vậy, phàm phu chấp hết cái này đến cái khác, đến lúc cuối cùng quán chiếu năm uẩn thấy tất cả là vô ngã, vô thường lại rơi vào chấp khác: Tôi hôm nay đã thấy được năm uẩn là vô ngã, vô thường, tôi hôm nay thấy được mọi sự là lắp ráp, tôi hôm nay là người không còn chấp thủ v.v…, tôi thế này, tôi thế khác mà cuối cùng quên mất rằng chẳng có cái tôi nào. 

Vấn đề nằm ở chỗ đó. Vì vậy Đức Phật dạy, khi không biết Phật pháp, tất cả phàm phu đều đam mê trong sáu trần năm uẩn, và trong sự đam mê đó luôn luôn có sự có mặt của tà kiến (thường kiến và đoạn kiến). Ngài dạy, phải quán chiếu năm uẩn là vô ngã, vô thường, bản thân nhận thức đó cũng vô ngã, vô thường. Dù có chấp thủ năm uẩn bằng quan điểm thường kiến hay đoạn kiến thì phải tâm niệm rằng, hãy nhớ rằng tà kiến đó chỉ là Hành trong 12 duyên khởi và Hành cũng chính là Ái, là Thủ, Nghiệp hữu.

Trong đời của tôi, tôi gặp rất nhiều người rơi trong hoàn cảnh này, đụng đâu chấp đó, theo trong kinh nói là y như con khỉ, buông cái cành này thì chụp cái cành kia. Ngày trước thì ham mê danh lợi, nhan sắc, quyền lực, tiếng tăm tài sản, vào đạo rồi thì đam mê, chấp thủ, nắm níu cái khác. Nắm níu về đức hạnh, kiến thức, thiền định, trí tuệ… Giáo lý của Đức Phật dạy mình buông, dạy mình đi ra. 

Trên đường đi ra khỏi rừng mà lại dừng chân quá lâu ở một nơi chốn thì biết kiếp nào mới ra khỏi rừng. Muốn ra khỏi rừng thì cái gì mình thấy trên đường đi cũng chỉ là cái để lại để từ biệt. Trên đường đi mà gặp con suối đẹp quá, cất cái nhà nơi đó ở lại mười hai năm; đi ngang rừng phong lan quá đẹp, ngừng lại cất cái nhà ở mười lăm năm… Cứ vậy thì làm gì có thời gian ra khỏi rừng? ‘Cất nhà’ nghĩa là dừng lại với nó. Có biết bao nhiêu người mang tiếng là con Phật nhưng lại khoái cất nhà. Trong kinh dạy khi thành đạo rồi thì tất cả chư Phật đều quán chiếu thấy rằng, bấy lâu nay trong dòng sinh tử luân hồi mình khoái cất nhà, kể từ bây giờ mình không còn cất nhà nữa. Vì vậy, các ngài có câu kệ giống nhau:

Lang thang bao kiếp luân hồi,
Tìm không gặp kẻ xây ngôi nhà này!
Ôi! Đời sống thật buồn thay!
Bèo mây bến cũ vần xoay lối về.

Hỡi này anh thợ nhà kia,
Rui mè kèo cột gãy lìa nát tan.
Bao tham ái thảy tiêu tàn,
Tâm ta thắng đạt, Niết Bàn thảnh thơi.”

Không cất nhà nữa, ra khỏi rừng thì cứ thẳng đường mà đi. Đừng có thấy ngồ ngộ thì dừng lại cất nhà. Cứ giữ giới được ba mớ, nghe pháp được ba mớ, hành thiền được ba mớ là cất nhà, chìm trong đó, thấy mình hay quá, giỏi quá. Bây giờ học được nửa đường Tương Ưng rồi, ít bữa học xong bộ Tương Ưng thì đi dưới đất mà mặt hất lên trời, nhìn quanh hội chúng đi nghe pháp cả mấy trăm người mà có ai có thời gian ngồi nghiên cứu hết bộ kinh hay không. Lúc đó thấy mình cao siêu quá. Như vậy, trước khi mình học mình là người dễ thương, học xong Tương Ưng này mình trở thành người dễ ghét, bởi ‘tôi học’, ‘tôi hiểu’, ‘tôi biết’ còn họ không học, không hiểu, không biết. Như vậy càng học càng tệ. 

Phật dạy mình để mình buông và đi ra, còn mình thì cầm lên và đi vô. Trong đạo lạ lắm, hễ cầm lên thì trọng lượng mình tăng, mà trọng lượng tăng thì mình chìm xuống. Mục đích tu hành không phải để được mà là để buông. Khi tu mà với tâm niệm tu để đắc thì anh rất dễ bị nhầm lẫn bởi vì có vô số thứ mà anh cứ nghĩ là mình đắc, trong khi tu để buông thì chỉ có nhớ một điều thôi: tất cả những gì xuất hiện trong tâm của tôi đều là vô ngã vô thường. Người đi đổ rác chỉ có một vấn đề giải quyết là cái gì trong tay của họ, buông cho bằng được, bỏ cho bằng được. Còn gánh nặng của người lượm ve chai lớn lắm. Phải tu hành bằng tâm trạng của người đi đổ rác chớ không phải của người lượm ve chai.

Trong kinh có cho mình câu kệ hai con voi chúa gặp nhau giữa rừng. Đức Phật cũng là một con voi chúa, và con voi chúa kia cũng chán bầy đàn, còn Đức Phật thì muốn nghỉ dưỡng bằng cách lìa bỏ các tỳ kheo. Trong kinh có ghi thêm rằng con voi Pārileyya sẽ là một trong mười vị Phật Toàn Giác sắp tới. Nếu không có duyên gặp Phật Di Lạc thì sẽ gặp được các vị tiếp theo. Con số 10 này chỉ là 10 vị gần nhất, sau đó thì vô số.

Sẵn đây tôi cũng nói luôn, có một vị HT Bắc Tông VN rất là nổi tiếng, đó là HT Thích Trí Quang. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên và đáng tiếc không biết vì sao mấy chục năm nghiên cứu không biết HT đã đọc sách ở đâu mà trong lời tựa cuốn Kinh Pháp Cú Nam Tông, Thích Trí Quang, ngài nói, Nam Tông chỉ tin có một vị Phật. Đây là cách nói rất là bất cẩn và rất là sai lầm. Nam Tông không bao giờ nói lạ lùng như vậy. Kinh điển Pāḷi chỉ có nói thế này: Không bao giờ có hai vị Chánh Đẳng Giác cùng xuất hiện một lúc trong một thái dương hệ. Kinh còn nói rõ thêm nữa, trong một ngàn tỷ universe, ngoài ra đó thì hoàn toàn có thể, nhưng trong phạm vi một ngàn tỷ đó chỉ có một vị mà thôi. Ngài không đọc được điều này hay nghe ở đâu đó mà nói rằng chỉ có một Phật Thích Ca. Đọc không kỹ thì dễ hiểu lầm lắm. Đúng là trong cái universe này và nói rộng ra một ngàn tỷ universe chung quanh thì chỉ có một vị Phật Thích Ca thôi, không bao giờ có hai vị trong cùng một không gian đó được, nhưng trước Phật Thích Ca thì có vô số và sau Phật Thích Ca thì có vô số. Về không gian thì ngoài một ngàn tỷ đó vẫn có thể có, về thời gian thì trước và sau mỗi vị Phật là vô số Phật.

Phật tử VN và phàm phu nói chung, nếu bỏ được tật xấu này thì chúng ta được lợi lạc, đó là: Chấp nhận quan điểm chính trị, văn hóa, triết học, tôn giáo, xã hội, khoa học bằng vào tình cảm, bằng vào niềm kính tin đối với một cá nhân. Đây là bậy vô cùng. Phải đi tìm hiểu, phải hỏi, không dừng lại thỏa mãn quá sớm với những câu trả lời. Người nghèo, người dốt dễ bằng lòng với những gì họ đang có, họ không biết tìm hiểu thêm. Nhưng với người có chí lớn, có kiến thức, người trí, họ sẽ không dừng lại ở những gì đã có.

Tuy nhiên, tu là phải tri túc. Tri túc là bằng lòng với cái mình có, nhưng đó phải là những gì không cần có nhiều hơn cũng được. Có những thứ càng nhiều càng tốt, ví dụ về tinh thần, về nhận thức, càng sâu càng rộng thì càng tốt. Trong vật chất thì ăn no, mặc ấm là đủ rồi. không cần phải ăn ngon mặc đẹp, ăn sang, mặc bảnh.

PĀRILEYYA (tiếp theo)

Ôn lại bài kinh Pārileyya một chút.

*Ba thứ trí

1. Ñātapariññā: sự hiểu biết về danh sắc, danh là gì, sắc là gì, do đâu mà có.

2. Tīraṇapariññā: trí biết rõ danh sắc không lìa Tam tướng, Tam tướng chính là danh sắc.

3. Pahānapariññā: sự chấm dứt phiền não, từ nhận thức đó tùy trình độ mà chấm dứt được bao nhiêu, tạm thời hay vĩnh viễn; một phần ba, một nửa hay toàn bộ.

*Danh sắc

Danh sắc là từ chuyên môn của Phật học ám chỉ cho toàn bộ vũ trụ này. Danh là tất cả những gì thuộc về tinh thần, sắc là tất cả những gì thuộc về vật chất. Gọi chung là danh sắc. Nghe đơn giản nhưng nó bao trùm vũ trụ, lấy nó ra thì vũ trụ này không còn gì hết. Cái biết của mình về danh sắc là cái biết vay mượn.

Khi khổ quá mình tìm đến Phật pháp thì trong kinh nói sao mình nghe vậy thôi chứ còn cái thấy đủ để thay đổi con người của mình bằng cách hạn chế hay chấm dứt phiền não thì có lẽ phải xét lại. Nhận thức của mình đối với cuộc đời này nói chung và đối với bản thân mình nói riêng, nhận thức của mình đối với danh sắc bên ngoài hay bên trong chỉ là học cho biết vậy thôi. Người có thể thấm thía được kinh Phật để giảm bớt hoặc trừ diệt phiền não chỉ có hành giả Tứ Niệm Xứ, chớ còn như chỉ học suông trong đây mỗi ngày lẻ trong tuần, hoặc lâu lâu ở đâu có thuyết pháp đến nghe ké một chút thì khó lòng. 

Chính mình phải sống chánh niệm, đi đứng nằm ngồi biết rõ, cái gì trong tâm xuất hiện biết rõ, tham giận buồn vui thiện, bất thiện biết rõ; triền miên như vậy suốt nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm thì sẽ có một ngày mới ngộ thì ra mình là đồ lắp ráp. Chỉ nghe thôi mà không thực tập thì ngàn tỷ kiếp cũng không đi tới đâu. Đó là lý do vì sao tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần ba thứ trí này. Trong bài kinh Pārileyya này Đức Phật dạy rất rõ điều đó; ở đây Ngài không dùng chữ danh sắc mà dùng khái niệm năm uẩn.

“Đoạn 13-16: Này các Tỷ-kheo, thấy như thế nào thì lậu hoặc mới chấm dứt, đoạn tận lập tức?”.

Kẻ vô văn phàm phu nhìn sắc uẩn như nhìn chính mình tức là nhìn từng ngón tay, từng sợi tóc, nhìn mặt mình trong gương, để ý màu da của mình, nhìn xe cộ, nhà đất như nhìn cái gì đó trực tiếp liên hệ tới mình “đây là tôi”, “đây là của tôi”; nhìn vật chất thì nghĩ như vậy. Còn đối với tất cả những gì thuộc về tinh thần — Thọ (cảm xúc buồn vui, dễ chịu khó chịu), Tưởng (tất cả những kinh nghiệm, kiến thức, hồi ức), Hành (những cái thiện, bất thiện của mình), Thức (cái biết của sáu căn) — một người phàm phu không tu tập học hỏi chánh pháp khi nhìn ngắm những thứ này thì nhìn với góc độ ‘tôi’ và ‘của tôi’. Với nhận thức như vậy thì đời đời không cách nào thoát khổ được.

Ví dụ tại sao mình thích nghe nhạc? Bởi vì những bản nhạc đó lắng đọng, khơi gợi những kỷ niệm, mở ra cho mình những liên tưởng suy diễn mơ mộng nào đó nên mình mới thích tiếng nhạc lời thơ đó, đó là đam mê trong Sắc; mỗi lần mình nghe âm thanh đó mình vui và mình muốn cái vui đó có trở lại, thèm một ly cà phê trong đêm mưa chẳng hạn, nhớ lại cảm xúc đó, như vậy là đam mê trong Danh. Nói chung cả đời mình chỉ đam mê trong Danh và Sắc, Đức Phật dạy một người như vậy thì không thể nào thoát khổ.

Đời sống này chỉ gồm danh và sắc, quá trình tồn tại của chúng chỉ dựa trên luật nhân quả. Danh sắc đời này là quả của tham ái trong danh sắc đời trước. Sáu căn đời này có được từ tham ái trong sáu trần đời trước. Nếu bây giờ tiếp tục thích sáu trần thì tương lai sẽ tiếp tục có sáu căn. Người phước ít thì sáu căn biết toàn cảnh bất toại. Người phước nhiều thì nếm trải sáu cảnh trần như ý, và dù cảnh trần bất toại hay như ý đều là nhân khổ trực tiếp hay gián tiếp.

Sự hiện hữu của mình chỉ là sự hiện hữu của sáu căn cho dù mình là Tổng thống Mỹ, thủ tướng Anh, giáo hoàng, hay ăn mày du đãng… Người có phước nhiều thì sáu căn biết sáu cảnh trần như ý. Chẳng hạn như ông Bill Gates hay Lý Gia Thành của Hongkong, xe họ đi là chiếc xe như ý, máy bay họ đi cũng là máy bay như ý, món họ ăn là món ăn như ý, giày dép, mắt kiếng, đồng hồ… đều như ý. Rồi thì sao? Nói chuyện xa thì chín mươi tuổi cũng không còn biết gì hết, nói chuyện gần thì dù có ngồi trên chiếc xe sang như ý, mặc cái áo như ý, đeo cái đồng hồ như ý thì trong suốt thời gian ngồi xe, mặc áo, đeo đồng hồ sang trọng như ý đó, thời gian hạnh phúc được bao nhiêu phần trăm? Trong khi vì những món đồ đắt tiền này mà phải làm trâu làm ngựa, một đời “vun xới nỗi sầu” để có nó, có nó rồi thì niềm vui do nó đem lại chẳng được nhiêu phần trăm thời gian, đó là những người có phước. Còn những người vô phước thì phải ăn những thứ họ không muốn, phải mặc những thứ không muốn, phải sống trong căn nhà không muốn, phải sống trong đất nước không muốn, phải gặp gỡ những người họ không muốn…, toàn là những điều không muốn.

Do tham ái trong sáu trần mới có sáu căn, và phước nhiều thì sáu căn mới biết cảnh như ý, còn thiếu phước thì sáu căn gặp cảnh bất toại. Do tham ái trong sáu trần mới có sáu căn, và phước nhiều thì sáu căn mới biết cảnh như ý, còn thiếu phước thì sáu căn gặp cảnh bất toại. Muốn tu hành ngon lành thì phải xem lại hạnh phúc và đau khổ là gì. Hạnh phúc là có được cái mình thích, đau khổ là chịu đựng cái mình ghét. Ghét hay thích chỉ là cảm giác nhất thời do ba nhân tạo. Ngài dạy rằng phải thấy rõ Danh là gì, Sắc là gì, thấy rõ Danh ở đâu mà có, Sắc ở đâu mà có. (Danh, Sắc ở đây là Danh uẩn và Sắc uẩn).

Nhân tạo ra sắc uẩn có nhiều cách nói, nhưng ở đây ta thường thấy Đức Phật dạy là đoàn thực, tức thức ăn thức uống. Thọ uẩn tức các cảm xúc (feeling) do 6 xúc mà có. Sáu xúc là sự tiếp cận sáu cảnh trần qua sáu căn. Trong kinh Đức Phật dạy, giả định như có cái chuồng nhốt 6 loài động vật, con cá có khuynh hướng đi tìm về nước, con chim có khuynh hướng bay lên trời, chồn cáo có khuynh hướng tìm về hang, rắn rít đi tìm về đất; khi mở cửa chuồng ra thì con cá đi tìm nước, con chim bay về trời, về những nơi thích hợp của chúng. Sáu căn của chúng ta cũng vậy, luôn có khuynh hướng đi tìm cái gì đó để tiếp cận. Sự tiếp cận đó được gọi là Xúc. Từ chỗ sáu căn tiếp xúc với sáu trần mới có sáu xúc, đó là cảm nhận từ cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc, cảnh pháp. Từ sáu căn tiếp xúc với sáu trần mới nảy ra cảm xúc, mới nảy ra những cái gọi là kiến thức – Tưởng uẩn. Từ tiếp xúc mới có thiện, có ác – Hành uẩn; và Thức uẩn là cái biết của mắt, của mũi…

Có nhiều cách nói về công phu tu hành. Nói tu tập là giải quyết 6 Thọ cũng đúng, 6 Xúc cũng đúng, 6 Căn cũng đúng, 6 Tưởng cũng đúng, 6 Hành cũng đúng, nói tu Bát Chánh Đạo, Thất Giác Chi, Tứ Niệm Xứ, Tam học đều đúng.

Tu tam học tức là tu giới, định, tuệ. ‘Giới’ nghĩa hẹp là mấy trăm giới của tăng ni, nghĩa rộng là có lòng ngăn tránh tất cả những gì bậy bạ về thân – khẩu – ý. Định là 3 định: Sát na định, cận định và kiên cố định. Tuệ là khả năng ghi nhận hiểu biết phân tích về danh sắc (thấy rõ danh là gì, sắc là gì) và Tam tướng.

Nói tu tập là giải quyết 6 xúc, 6 thọ cũng đúng vì lẽ ra mình đi bar, đi casino đánh bài, đi câu cá, mà mình không đi; mình ngồi trong rừng hoặc trong phòng riêng theo dõi hơi thở; nghĩa là không để cho mắt đi tìm nhãn xúc, tai đi tìm nhĩ xúc; đó là tu xúc. Ngày xưa phải có những thứ ăn nhậu, đàn đúm, tụm năm tụm ba tán gẫu, mình mới vui, mới hoan hỉ; bây giờ những cái đó không còn là niềm vui của mình, mà niềm vui của mình bây giờ là đời sống chánh niệm, đó là tu 6 thọ. 

Tu về 6 tưởng nghĩa là sao? Không bao giờ 6 căn biết 6 trần mà không có Tưởng, mình biết đây là hình tròn chứ không phải hình vuông, màu xanh chứ không phải màu tím… cái biết này là khía cạnh Tưởng uẩn. Trước giờ mình chạy theo cái mình thích, né cái mình ghét, bây giờ mọi thứ diễn ra mình chỉ quan sát, ví dụ nhìn dòng sông, biết đây là cọng rác trôi sông, biết đây là cùi bắp trôi, biết đây là xác thú chết trôi… mình đứng trên bờ chỉ quan sát mà thôi, đó là tu Hành uẩn. Nói tu tập là giải quyết 6 thọ cũng đúng, giải quyết 6 xúc cũng đúng, giải quyết 6 căn, 6 tưởng, 6 hành hay 6 tư cũng đúng. Tư tức là 6 tâm sở tư (tư trong lúc nhìn, lúc nghe, lúc ngửi…).

Đức Phật dạy, toàn bộ đời sống này chỉ là danh và sắc, toàn bộ đời sống này chỉ là quá trình ghép nối của nhân và quả, toàn bộ đời sống này chỉ là sự hiện hữu của Tam tướng. Ngài dạy phải nhìn ngắm năm uẩn qua khía cạnh nhân quả, qua khía cạnh Tam tướng như vậy đó, nhìn rõ thấy rõ Sắclà gì, Thọ Tưởng Hành Thức là gì, duyên khởi của nó là gì. Nói chung lại là phải thấy rõ năm uẩn là gì, từ đâu có và đều nằm trong Tam tướng, thấy được như vậy mới có thể chấm dứt phiền não.

Khi nào tôi giải thích Tư, Thọ, Xúc, Tưởng thì bà con làm ơn nhớ kỹ, bởi vì kiến thức này các vị sẽ xài hoài trong các bài kinh sắp tới và trong toàn bộ cuộc đời tu tập của mình. Phật pháp không phải là cái biết mình được thì tốt mà Phật pháp là điều mình phải biết, vì chính cái biết Phật pháp thay đổi nhận thức của mình trong đời sống. Chữ ‘nhận thức’ này quan trọng lắm, dù cho ngồi trên đống kim cương mà nhận thức nghèo nàn thì đống kim cương kia không có khả năng đem đến cho mình sự an lạc và an tâm khi đối diện với cái chết. 

Sáng nay trước khi vào giảng, tôi có liếc sơ thời sự, toàn là tin buồn. Cô Lương Tịnh Văn, MC của đài truyền hình Hongkong mới tự tử, còn trẻ măng. Cổ bị stress, sốc gì đó mà đốt than trong phòng để chết. Quí vị sẽ thắc mắc tại sao tôi coi những cái này, tôi chủ trương sống trong thời đại này mỗi ngày mình liếc mắt một chút để biết về chính trị, thời sự, văn hóa, để có khái niệm mình đang sống ở đâu và thế giới đang đi về đâu, nhưng quan trọng là từ góc độ một người học Phật pháp, những tin tức đó hun đúc trưởng dưỡng những nhận thức của mình về cuộc đời. Mỗi ngày mình dành một ít thời gian để đọc, sống mà mù tịt là không được. Có những vị cực đoan cho rằng tôi tu hành, tôi không cần biết…, đó là với điều kiện anh phải cắt đứt 100% quan hệ với thế giới xung quanh, chớ còn ở ngoài này, còn phải đi xe lửa, xe bus, còn nấu ăn, còn tiếp xúc người này người kia thì một ngày phải dành vài phút theo dõi thời sự, chớ không mình đang sống năm 2015 mà trong đầu toàn những chuyện năm 1961 thì mệt lắm.
___________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.