Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (7)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (7)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[22] Chương I: Tương Ưng Uẩn (b)

IV. Phẩm Không Phải Của Các Ông

I. Không Phải Của Các Ông (Tạp 10.14 Kỳ Lâm, Ðại 2,10b) (S.iii,33)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) -- Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

4) Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông?

5) Sắc, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

6) Thọ, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

7) Tưởng, này các Tỷ-kheo...

8) Các hành, này các Tỷ-kheo...

9) Thức, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

10) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người mang lại cỏ, củi, cành cây, lá của Jetavana này, và đốt chúng hay tùy theo duyên sử dụng chúng. Các Ông có nghĩ rằng: "Người ấy mang chúng tôi, hay đốt, hay tùy theo duyên sử dụng chúng tôi"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn. Vì sao như vậy? Vì cái ấy không phải chúng con. Bạch Thế Tôn, cái ấy không phải thuộc tự ngã của chúng con.

11) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông. Thọ không phải của các Ông... Tưởng không phải của các Ông. Các hành không phải của các Ông... Thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

II. Không Phải Của Các Ông (S.iii,34)

1-2) Nhân duyên ở Sàavatthi...

3) -- Cái gì không phải của các Ông, này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

4) Này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông?

5) Sắc, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

6-8) Thọ, này các Tỷ-kheo, không phải của các Ông... Tưởng, này các Tỷ-kheo... Các hành, này các Tỷ-kheo...

9) Thức, này các Tỷ-kheo, không phải của Ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc cho các Ông.

III. Tỷ Kheo (S.iii,35)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

[I]

2) Rồi một vị Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

3) -- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) -- Này Tỷ-kheo, cái gì người ta thiên chấp tùy miên, người ta sẽ được xưng danh tùy theo thiên chấp tùy miên ấy. Cái gì người ta không thiên chấp tùy miên, người ta sẽ không được xưng danh tùy theo thiên chấp tùy miên ấy.

-- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) -- Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi điều Ta nói một cách vắn tắt?

6) -- Bạch Thế Tôn, nếu thiên chấp sắc, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp tưởng, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp các hành, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp thức, do thiên chấp ấy được xưng danh.

7) Bạch Thế Tôn, nếu không thiên chấp sắc, không do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu không thiên chấp thọ... Nếu không thiên chấp tưởng... Nếu không thiên chấp hành... Nếu không thiên chấp thức, không do thiên chấp ấy được xưng danh. Bạch Thế Tôn, với lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8) -- Lành thay, lành thay, Tỷ-kheo! Lành thay, với lời nói vắn tắt này của Ta, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy. Nếu thiên chấp sắc, do thiên chấp ấy được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ... Nếu thiên chấp tưởng... Nếu thiên chấp các hành... Nếu thiên chấp thức, do thiên chấp ấy được xưng danh. Này Tỷ-kheo, nếu không thiên chấp sắc, không do thiên chấp ấy được xưng danh... Nếu không thiên chấp thọ... Nếu không thiên chấp tưởng... Nếu không thiên chấp các hành... Nếu không thiên chấp thức, không do thiên chấp ấy được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu một cách rộng rãi như vậy.

9) Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn thuyết, từ chỗ ngồi đứng dậy, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

[II]

10) Rồi Tỷ-kheo ấy sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng được mục đích mà con nhà lương gia chân chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến: Ðó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh. Vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

11) Và vị Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

IV. Vị Tỷ Kheo (S.iii,37)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi...

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn... ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

3) -- Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn thuyết pháp một cách vắn tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) -- Này Tỷ-kheo, cái gì người ta thiên chấp (anuseti), cái ấy người ta được đo lường (anopuyti). Cái gì người ta được đo lường, cái ấy người ta được xưng danh (sankham gacchati). Cái gì người ta không thiên chấp, cái ấy người ta không được đo lường. Cái gì người ta không được đo lường, cái ấy người ta không được xưng danh.

-- Con đã hiểu, bạch Thế Tôn. Con đã hiểu, bạch Thiện Thệ.

5) -- Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu một cách rộng rãi như thế nào?

6) -- Nếu thiên chấp sắc, bạch Thế Tôn, với sắc, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ... Nếu thiên chấp tưởng... Nếu thiên chấp các hành... Nếu thiên chấp thức, với thức, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh.

7) Nếu không thiên chấp sắc, bạch Thế Tôn, với sắc, người ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh. Nếu không thiên chấp thọ... Nếu không thiên chấp tưởng... Nếu không thiên chấp các hành... Nếu không thiên chấp thức, với thức, người ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, bạch Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời nói vắn tắt này của Ta, Ông đã hiểu một cách rộng rãi như vậy. Nếu thiên chấp sắc, này Tỷ-kheo, với sắc, người ta được đo lường. Với cái gì được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. Nếu thiên chấp thọ... Nếu thiên chấp tưởng... Nếu thiên chấp các hành... Nếu thiên chấp thức, với thức, người ta được đo lường. Với cái gì người ta được đo lường, với cái ấy, người ta được xưng danh. Nếu không thiên chấp sắc, này Tỷ-kheo, với sắc, người ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh. Nếu không thiên chấp thọ... Nếu không thiên chấp tưởng... Nếu không thiên chấp các hành... Nếu không thiên chấp thức, với thức, người ta không được đo lường. Với cái gì người ta không được đo lường, với cái ấy, người ta không được xưng danh. Với lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

9) Rồi vị Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

10) Rồi vị Tỷ-kheo ấy sống một mình, tịnh cư...

11) Vị Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán.

V. Ananda (S.iii,37)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một bên:

-- Này Ananda, nếu có người hỏi Ông: "Này Hiền giả Ananda, những pháp nào sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ?" Nếu được hỏi vậy, này Ananda, Ông trả lời như thế nào?

4) -- Bạch Thế Tôn, nếu có người hỏi con: "Này Hiền giả Ananda, những pháp nào sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như sau :

5) "Trong sắc, này Hiền giả, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Trong thọ... Trong tưởng... Trong các hành... Trong thức, này Hiền giả, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ". Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như vậy.

6) -- Lành thay, lành thay, này Ananda! Này Ananda, trong sắc sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Trong thọ... Trong tưởng... Trong các hành... Trong thức, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Này Ananda, trong những pháp này, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Ðược hỏi vậy, này Ananda, Ông phải trả lời như vậy.

VI. Ananda (S.iii,38)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) -- Này Ananda, nếu Ông được hỏi như sau: "Trong những pháp nào, này Hiền giả Ananda, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ? Trong những pháp nào sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ?" Ðược hỏi như vậy, này Ananda, Ông trả lời như thế nào?

4) -- Bạch Thế Tôn, nếu con được hỏi như sau: "Trong những pháp nào, này Hiền giả Ananda, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ? Trong những pháp nào, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ?" Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời như sau:

5) "Ðối với sắc quá khứ, này Hiền giả, đã đoạn diệt, đã biến hoại, đối với sắc ấy, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Ðối với thọ quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại, sự sanh khởi của thọ ấy được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Ðối với tưởng... Ðối với các hành... Ðối với thức quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại, sự sanh khởi của thức ấy đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Trong những pháp này, này Hiền giả, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ.

6) Ðối với sắc chưa sanh, này Hiền giả, chưa hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Ðối với thọ chưa sanh, chưa hiện hữu, trong thọ ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Ðối với tưởng... Ðối với các hành... Ðối với thức chưa sanh, chưa hiện hữu, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Trong những pháp này, này Hiền giả, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ.

7) Ðối với sắc đã sanh, này Hiền giả, đã hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Ðối với thọ đã sanh, đã hiện hữu... Ðối với tưởng đã sanh, đã hiện hữu... Ðối với các hành đã sanh, đã hiện hữu... Ðối với thức đã sanh, đã hiện hữu, trong thức ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ. Trong những pháp này, này Hiền giả, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ".

Nếu con được hỏi như vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ trả lời như vậy.

8) -- Lành thay, lành thay, này Ananda! Này Ananda, đối với sắc thuộc quá khứ đã đoạn diệt, đã biến hoại; đối với sắc ấy, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự diệt mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Ðối với thọ... Ðối với tưởng... Ðối với các hành... Ðối với thức, thuộc quá khứ đã đoạn diệt, đã biến hoại, trong thức ấy, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự biến mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ. Trong các pháp này, này Ananda, sự sanh khởi đã được thấy rõ, sự biến mất đã được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi đã được thấy rõ.

9) Ðối với sắc chưa sanh, này Ananda, chưa hiện hữu, trong sắc ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Ðối với thọ... Ðối với tưởng... Ðối với các hành... Ðối với thức chưa sanh khởi, chưa hiện hữu, trong thức ấy, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ. Ðối với những pháp này, này Ananda, sự sanh khởi sẽ được thấy rõ, sự diệt mất sẽ được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi sẽ được thấy rõ.

10) Ðối với sắc đã sanh, này Ananda, đã hiện hữu, đối với sắc ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Ðối với thọ... Ðối với tưởng... Ðối với các hành... Ðối với thức đã sanh, đã hiện hữu, đối với thức ấy, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Trong những pháp này, sự sanh khởi được thấy rõ, sự diệt mất được thấy rõ, trong khi tồn tại, sự biến đổi được thấy rõ. Ðược hỏi như vậy, này Ananda, Ông cần phải trả lời như vậy.

VII. Tùy Pháp (S.iii,41)

1-2) Nhân duyên ở Sàavatthi...

3) -- Ðối với vị Tỷ-kheo thực hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Ðối với sắc, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với thọ, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với tưởng, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với các hành, vị ấy sống nhiều yếm ly; đối với thức, vị ấy sống nhiều yếm ly.

4) Ai sống nhiều yếm ly đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành... ai sống nhiều yếm ly đối với thức, vị ấy liễu tri sắc... liễu tri thọ... liễu tri tưởng... liễu tri các hành... liễu tri thức. Do liễu tri sắc... thọ... tưởng... các hành... do liễu tri thức, vị ấy được giải thoát khỏi sắc, giải thoát khỏi thọ, giải thoát khỏi tưởng, giải thoát khỏi các hành, giải thoát khỏi thức, giải thoát khỏi sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

VIII. Tùy Pháp (S.iii,41)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3-5) -- Ðối với vị Tỷ-kheo thực hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán vô thường trong sắc... Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

IX. Tùy Pháp (S.iii,41)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3-5) -- Ðối với vị Tỷ-kheo thực hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán khổ trong sắc... Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

X. Tùy Pháp (S.iii,41)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) -- Ðối với vị Tỷ-kheo thực hành pháp và tùy pháp, tùy pháp này có mặt: Vị ấy sống tùy quán vô ngã trong sắc... trong thọ... trong tưởng... trong các hành. Vị ấy sống tùy quán vô ngã trong thức...

4) Ai sống tùy quán vô ngã trong sắc, trong thọ, trong tưởng, trong các hành, trong thức; vị ấy liễu tri sắc, liễu tri thọ, liễu tri tưởng, liễu tri các hành, liễu tri thức. Do vị ấy liễu tri sắc, liễu tri thọ, liễu tri tưởng, liễu tri các hành, liễu tri thức; vị ấy giải thoát khỏi sắc, giải thoát khỏi thọ, giải thoát khỏi tưởng, giải thoát khỏi các hành, giải thoát khỏi thức, giải thoát khỏi sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Không Phải Của Các Ông

Trong bài kinh này Đức Phật dạy một chuyện rất rõ ràng, và đề tài Ngài nói rất là phổ biến. Ở đây Ngài dạy, cái gì không phải của mình thì phải bỏ bớt đi cho đỡ khổ. Nếu nó là của mình thì mình có quyền điều động sai khiến, sắp xếp an bài như ý của mình thì không nói làm gì, còn đằng này đi làm chủ một vật mà nó không thuộc về mình. 

Không biết quí vị còn nhớ câu chuyện anh khờ mua vịt không. Người vợ thấy người ta nuôi vịt, nhà mình có ao hồ sông ruộng mênh mông nên đưa cho chồng một mớ tiền để đi mua vịt về nuôi. Anh chồng vừa đi vừa la cà bắt chuyện theo đường. Gặp trúng một tên bất lương biết chuyện, gạt bán rẻ cho anh ta một đám vịt đang nằm trên đồng. Anh chồng mừng quá, giao dịch mua bán vừa xong là tên bất lương đi mất. Hóa ra anh ta mua nhầm bầy le le, vừa chạm chân xuống nước để lùa thì chúng bay sạch. Việc ta nắm chặt năm uẩn cũng giống như anh khờ bỏ tiền mua vịt trời, le le. Nghĩa là nó không thuộc về mình mà mình lại đầu tư cho nó quá nhiều, đùng một cái là không giữ được. 

Mới hôm qua tôi có nói chuyện với một Phật tử, cô này nói là mệt mỏi chuyện gia đình, muốn đi tu thiền. Chuyện gia đình của người ta mà mình xúi thì người ta chém mình chết. Tôi chỉ có trả lời một câu: Thời điểm tốt nhất để tu thiền là ngay lúc này, không biết cô bao nhiêu tuổi. Vì lúc khác không biết còn sống, còn sức khỏe, còn minh mẫn, còn đức tin, còn tinh tấn hay không. Vì vậy thời điểm tốt nhất là lúc này. Bây giờ cô còn đang quá sức ngon lành về sức khỏe và trí nhớ, chớ một ngày cái lưng sẽ không cho mình ngồi nữa. Cũng thân thể này mà có lúc nó không cho mình ngồi, ngồi là bị đau. Tôi nói xong thì cổ im ru, tôi biết cổ đang chăn bầy le le. Con của cổ năm nay 15 rồi, ba năm nữa nó bay mất. Chồng cũng chưa chắc giữ được, mà cái mạng mình cũng là con le le. Tên con le le là “wild duck”. Tiếng Mỹ có chữ này: “land duck”, chỉ cho hạng người không dám làm gì hết, chỉ có tính thôi. “Land duck” là con vịt không dám bơi, cứ lấp ló trong bờ. Nhưng không bơi thì nó còn đi, còn một chữ nữa: “Lame duck”. Loại này còn thảm nữa, không bơi được mà cũng không đi.

Nội dung bài kinh này: cái gì không thuộc về mình mà cứ ôm giữ nó thì sẽ có một ngày nó bay sạch như bầy le le của anh khờ. Một ngày trên thế giới có bao nhiêu người chết, bao nhiêu tai nạn, đổ vỡ mất mát, tan rã. Chuyện nào không mắc mớ gì tới mình thì mình tỉnh bơ. Cụ Nguyễn Hiến Lê nói, chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh không quan trọng bằng cái răng sâu của mình. Đọc báo mà thấy những cảnh khổ đó mình chỉ liếc qua rồi chép miệng: tội nghiệp quá. Rồi thôi. Trong khi đó, nếu như răng của mình bị đau, hoặc con mình bị đau răng khóc la thì mình cũng đau theo, vì mình nghĩ đó là của mình. 

Vì vậy Đức Phật dạy, cái gì buông được thì buông cho nhẹ. Ngài hỏi chư tăng: Người ta đốn phá cây cối trong chùa Kỳ Viên các vị có buồn không? Chư tăng thưa không. Vì sao, bởi nó không thuộc các vị. Ở đây có chuyện nhắc thêm, tôi sợ có khi đọc đến đây bà con nghĩ sao mấy sư không có trách nhiệm, người ta phá chùa sao không giận. Ngày xưa trong tinh thần Phật Giáo Nguyên Thủy quan hệ giữa nhà sư và chùa không giống như bây giờ. Thời nay, chùa gần như là vật sở hữu của trụ trì, trụ trì muốn cho ai ở thì cho. Những sư nào mà dính líu với ngôi chùa bằng hộ khẩu thì coi như cái chùa đó cũng là mái nhà nương thân suốt cuộc đời vì vậy ai đụng tới chùa thì coi như đụng tới mình, đụng tới cuộc đời, đụng tới quyền lợi của mình. 

Ngày xưa thì khi ông A, bà B cúng một cơ sở cho chư tăng thì trụ trì là người được chư tăng đề cử chớ không phải do tự mình vận động. Thời Đức Phật, trụ trì là “bị” chư tăng đề cử. Chư tăng thời đó chỉ đến ở qua đêm rồi đi, hoặc nhập hạ rồi đi. Họ chỉ ngủ đêm ở đó, ban ngày đi bát. Nếu nhập hạ thì đêm về ngủ suốt ba tháng. Chùa không có sổ sách, tiền nong, ban bệ như ngày nay. Trụ trì ngày xưa chỉ có trách nhiệm chớ không có quyền lợi, chư tăng thấy vị nào có khả năng thì giao cho vị ấy trông coi những thứ người ta cúng (mùng mền, chăn đệm, giường…), sau này vị này muốn đi lên rừng núi hành đạo thì phải kiếm người khác thế vào rồi mới đi. Việc đề cử này không phải đề cử suông mà bằng một bài tụng tuyên ngôn. Vị này ngày ngày cũng đi bát như mọi người, rồi về mỗi ngày coi đồ đạc cái nào cần giặt thì giặt, cần cất vào tủ thì cất. Khi có khách tăng về thì sắp xếp chỗ ngủ, chăm sóc khách bệnh… Rồi tới khi thấy có ai gánh được thì năn nỉ bàn giao. 

Trụ trì nguyên thủy tệ hơn ông từ, khi nào kiếm được người khác thì giao rồi dzọt, bỏ của chạy lấy người. Sở dĩ tôi dài dòng để quí vị thấy vì sao chùa Kỳ Viên bị chặt cây mà chư tăng tỉnh bơ là lý do như vậy đó. Dù có là trụ trì cũng không được gì trong việc trụ trì nên những người không trụ trì thì càng không có lý do gì để bận tâm, chớ không phải họ không có trách nhiệm.

Việc giữ chặt năm uẩn cũng giống mua bầy le le, như anh ăn mày tương tư hoa hậu. Bài kinh Không Phải Của Các Ngươi tiếp theo cũng giống y như vậy.

TỶ KHEO

Thời Đức Phật có rất nhiều việc như thế này xảy ra: Thỉnh thoảng có những vị tỳ kheo hoặc những nhóm tỳ kheo bên cạnh Đức Thế Tôn xin phép Ngài để đi về một nơi nào đó. Họ muốn đổi cảnh thôi chớ bên cạnh Ngài là số một rồi. Ngài ở chùa Kỳ Viên, chùa Đông Phương, chùa Yasa (là Nigrodharama của dòng Thích Ca). Đức Thế Tôn phần lớn ở phố, nhiều vị đến xin phép Ngài rời đi. Theo chú giải, họ biết Ngài là bậc Toàn giác, vì vậy muốn làm gì thì đến trình Ngài, Ngài biết nên hay không nên là họ yên bụng. Vị tỳ kheo này trước khi đi đến xin Đức Thế Tôn một cái gì đó để cầm tay lên đường. Điều Đức Thế Tôn dạy cho vị tỳ kheo này rất lạ. Ngài nói:

“4)Này Tỷ-kheo, cái gì người ta thiên chấp tùy miên, người ta sẽ được xưng danh tùy theo thiên chấp tùy miênấy. Cái gì người ta không thiên chấp tùy miên, người ta sẽ không được xưng danh tùy theo thiên chấp tùy miên ấy.” (bản dịch của HT Minh Châu).

“Thiên chấp tùy miên”, trong bản Pāḷi là ‘anuseti’ nghĩa là ‘sống trong đó’ (dwell on), tôi dịch là ‘tơ tưởng’.

“Xưng danh tùy miên”: “saṅkhaṃ gacchati” nghĩa là ‘suy diễn’. Thích cái gì, tơ tưởng cái gì thì thích suy diễn tưởng tượng về cái đó.

‘Rāga’: ‘nhuộm’, ‘nhiễm’ trong tiếng Hán là nghĩa nhuộm.

‘Tanha’: ‘khát ái’, nghĩa đen của ‘tanha’ là khát nước. Trong tiếng Hán, khát cũng có nghĩa là khát nước (thirsty). Cũng giống như chữ “đạp” tiếng Hán cũng là chữ “đạp” trong tiếng Việt, như câu “đạp tuyết tầm mai” (dẫm lên tuyết tìm mai); hoặc chữ ‘bạn’ trong tiếng Hán cũng có nghĩa ‘bạn’ như tiếng Việt.

Rāga = ratta (tham); từ ngữ căn ‘raj’

Dosa = duṭṭha (sân); từ ngữ căn ‘dus’

Moha = mūḷha (si); từ ngữ căn ‘muh’: tối tăm mù mịt

Do tơ tưởng (anuseti) nên mới có suy diễn (saṅkhaṃ gacchati), từ đó mới có tham (ratta), sân (duṭṭha), si (mūḷha).

Đức Thế Tôn dạy cho vị tỳ kheo một câu: Mình tơ tưởng cái gì thì thích suy diễn về cái đó. Nó đúng ra là đất nước lửa gió, nó là tâm tham tâm sân tâm thiện. Mình thì tưởng ra mắt bồ câu, tóc dài như suối, da trắng như bông bưởi, mắt biết nói…; hoặc người ta nói ngẫu nhiên mà mình tưởng người ta móc mỉa mình. Vị tỳ kheo này cứ đi bát bình thường, hễ mỗi lần chớm thích, chớm bực mình là biết liền mình đã có tơ tưởng; mình sắp suy diễn, suy diễn ở đâu thì tham, sân, si ở đó. Đức Phật biết giảng cho vị này nhiêu đó là đủ rồi, giảng xong thì vị ấy nói: “Aññātaṃ, bhagavā; aññātaṃ, sugatā”, Bạch Thế Tôn con hiểu rồi. Đức Phật hỏi vị này hiểu như thế nào, và vị này đã giải thích (đoạn chánh kinh 6,7)

Bài kinh Tỷ Kheo thứ hai cũng y hệt vậy nhưng có thêm một đoạn:

“4) Này Tỷ-kheo, cái gì người ta thiên chấp (anuseti), cái ấy người ta được đo lường (anopuyti). Cái gì người ta được đo lường, cái ấy người ta được xưng danh (sankham gacchati). Cái gì người ta không thiên chấp, cái ấy người ta không được đo lường. Cái gì người ta không được đo lường, cái ấy người ta không được xưng danh.

‘Anumarati’: so sánh (compare)

Khi mình tơ tưởng cái gì thì mình thích so sánh. Ví dụ, mình thích người đó vì người đó có cái điểm giống mình, có suy nghĩ hợp với mình. Mình thương người đó vì người đó giống người mình thương, mình ghét ai đó vì người ta giống ai đó mình ghét, giống cái mình ghét về quan điểm, tôn giáo, văn hóa, triết học; mình thích ghét vì mình có so sánh. Câu chuyện tôi từng kể: có thiền sinh hỏi thiền sư: Thưa ngài, ngài có thể thu gọn Phật pháp trong một câu được không. Thiền sư vẽ đường vạch trên đất và hỏi: Một đường vạch thế này là dài hay ngắn.

Thích hay ghét là vì còn so sánh. Khi không còn so sánh nữa thì làm gì có thích hay ghét. Khi tu theo lời Phật thì hạn chế, đừng so sánh nữa. Tu Quán là thấy sao biết vậy, nghe sao biết vậy, nghe chỉ là nghe, mùi chỉ là mùi. Chỉ có người thực tập thiền quán mới có thể nghe mà không suy diễn. Người thực sự sợ hãi sinh tử, thiết tha cầu giải thoát thì mới làm được chuyện này. Các ngài ví dụ: cũng giống như khi ta đi giữa hai hàng gươm giáo bén nhọn hay trong một khe hẹp dính đầy phân. Chánh niệm là như vậy, không quan tâm khía cạnh thích hay ghét, nghe chỉ là nghe, thấy chỉ là thấy mà thôi. Trong kinh còn cho một ví dụ, hành giả tu Tứ Niệm Xứ là giống người tử tù đội bát dầu đầy đi giữa hai hàng mỹ nhân mà không dám liếc, phải giữ cho không một giọt dầu đổ ra để khỏi bị chém đầu.

Quí vị từng chun bụi gai lần nào chưa, ở đây tôi đi đường tắt, đi học về theo đường tắt cho đỡ mệt. Đi phải rất nghệ thuật, lách làm sao cho gai khỏi đâm mình, cũng may là có lối mòn, có người cũng làm biếng đã đi trước. Tuy nhiên mùa mưa thì gai cũng phát triển dù là lối mòn. Nói tới đây tôi mới nhớ hai thầy trò đi ăn trộm. Ban đêm đột nhập vào nhà người bị gia chủ phát hiện, cả làng đốt đuốc rượt đuổi. Ông thầy thì có kinh nghiệm trốn mất tiêu, còn trò thì chui tọt vào bụi gai. Không ai nghĩ có thể có người lọt vào bụi gai nên họ bỏ đi. Ông thầy quay lại không thấy học trò, đi tìm và phát hiện học trò trong bụi gai nhưng không thể chui ra. Ông bảo thằng học trò: Vô bằng tâm nào thì ra bằng tâm đó. Sau đó ông hô hoán lên, học trò nghe thấy liền chui ào ra khỏi bụi tre. Nó vô bằng tâm nào thì ra bằng tâm đó, tâm đó không nghĩ đến gai mà chỉ nghĩ đến một chuyện: sinh tử.

Chỉ nghĩ đến một chuyện: luân hồi; vì vậy tâm không thiên lệch. Hành giả tu Tứ Niệm Xứ chỉ nghĩ có một chuyện: sinh tử luân hồi, không nghĩ đến gì khác, giống như anh chàng học trò ăn trộm sợ bị bắt.

Bài kinh này giống bài kinh trước, chỉ thêm chữ so sánh (anumarati).

ĀNANDA

Bài kinh này chỉ đọc bản tiếng Việt không thì mệt mỏi, nhưng bản Pāḷi thì sáng trưng.

Câu hỏi của Đức Thế Tôn có thể dịch lại như sau: “Này Ānanda, dựa vào đâu mà có hiện tượng sanh diệt đổi thay. Nói già thì phải có ai đó; cũ, hư, mất mát cũng vậy…” Ngài Ānanda trả lời: Do dựa vào năm uẩn mới có các hiện tượng sanh diệt và đổi thay.

Quí vị thường hay nghe câu “Vạn hữu do duyên mà có, đã có rồi thì sẽ bị mất” thì trong chú giải của kinh này có ghi: ‘Paccayanibbatto’: “do duyên mà có.” Trong chú giải giải thích như thế này:

“Saṅkhāro ca na lakkhaṇaṃ, lakkhaṇaṃ na saṅkhāro, na ca saṅkhārena vinā lakkhaṇaṃ paññāpetuṃ sakkā, nāpi lakkhaṇaṃ vinā saṅkhāro, lakkhaṇena pana saṅkhāro pākaṭo hoti”

Các hành không phải là Tam tướng, Tam tướng không phải là các hành, nhưng không có các hành (vạn hữu) thì không có chỗ để thấy ra Tam tướng. Lìa các hành thì không có Tam tướng, lìa Tam tướng thì không có các hành.

Hành ở đây là gì? “Sankhatam nāma paccayanibbatto yo koci sankhāro”. Pháp hữu vi những gì do duyên mà có. Quí vị phải học thuộc lòng câu này nếu mình là Phật tử Nam Tông và có lòng cầu đạo giải thoát. Câu này là câu thần chú phải nhớ. Cứ ra vô câu đó đọc hoài như vậy tự nhiên thuộc à.


Pháp hữu vi những gì đó do duyên mà có. Sanh già đau chết ở đâu mà có? Là phải dựa vào danh sắc, phải dựa vào năm uẩn. Hễ có năm uẩn, hễ có danh sắc là dứt khoát phải có sanh già đau chết. Ở đây các ngài nói rõ thế này: Do có sự xuất hiện của năm uẩn mới gọi là sanh. Do sự biến mất của chúng mới gọi là diệt, là tử. Sanh và diệt (là hai tình trạng bắt buộc của năm uẩn, của danh sắc) còn được gọi chung bằng một từ: ‘aññathatta’(biến đổi, đổi khác), không còn giữ nguyên tình trạng cũ.

Bài kinh Ānanda thứ hai cũng vậy, nhưng nói rộng ra ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Bài thứ nhất nói chung chung, bài thứ hai kể ra ba thời điểm. Nghĩa là dựa vào năm uẩn đã diệt trong quá khứ, đã sanh trong quá khứ; do dựa vào năm uẩn đang diệt trong hiện tại, đang sanh trong hiện tại; dựa vào năm uẩn sẽ sanh trong vị lai, sẽ diệt trong vị lai mà nói đến sự vô thường.

Quí vị phải vui một điều là nhờ có lớp này mình mới chịu khó đọc kỹ từng bài kinh. Nghĩa là nếu không có gì trục trặc thì trong vài năm nữa quí vị có thể yên tâm dầu với riêng mình, thì ra trong cuộc đời tôi, tôi cũng đã đọc hết một bộ kinh Phật. Không gì đáng buồn đi vào chùa nhìn tủ kinh mênh mông bát ngát mà không biết trong đó nói cái gì. Nếu theo đuổi lớp này thì năm năm, ba năm nữa mình có thể vui vẻ ra đi vì trong thời gian làm Phật tử của mình, mình tận mắt tận tay nghiên cứu một bộ kinh. Với nền tảng này quí vị mò qua Tăng Chi, Trường Bộ, Tiểu Bộ một cách vô tư. Những chữ Pāḷi là phải ghi ghép, không ghi chữ Pāḷi chỗ quan trọng làm sao biết đường search online. Ngày xưa tôi giảng Trung Bộ Kinh 152 bài, tôi giảng ba lần, những người học tôi quên sạch hết rồi. Mười sáu năm về trước, tôi cũng đã từng giảng cho một người quen, từ năm 1994, quyển Thanh Tịnh Đạo phần Định, nhân vật đó sau này lấy chồng đi qua Đức và lấy người không có tôn giáo, ngày xưa em học tôi cái gì em bèn trả lại hết cho tôi cái đó. Mất sạch 16 năm. Bây giờ có gọi phone nói chuyện thì y như kẻ vô thần, thôi kệ.

TÙY PHÁP (Anudhammasutta)

Có một thuật ngữ nhà Phật rất quan trọng, bà con nghe rất là thường, nhưng nhiều người thường hiểu lầm, đó là chữ: ‘hành pháp’ và và ‘tùy pháp’. ‘Tùy’ ở đây không phải là động từ (verb). Tùy là “anu” (prefix) mang nghĩa tính từ.

‘Dhammanudhamma’ có nghĩa là hệ thống tuần tự, hành trình thứ lớp để dẫn đến giải thoát. Tam học là một hành trình. Từ dễ qua khó là một hành trình. Từ thô qua tế là một hành trình. Từ đơn giản qua phức tạp là một hành trình. Từ thấp lên cao là một hành trình.

Chữ ‘Dhammanudhamma’ ở đây ngài Viên Minh thì dịch theo chữ Hán, không có đối chiếu Sớ giải, ngài dịch là “tùy duyên thuận pháp”. Nhưng trong chú giải thì nói mình tu tập từ dễ qua khó, từ thấp lên cao, từ thô qua tế, từ đơn giản đến phức tạp thì trong trường hợp đó được gọi là ‘dhammānudhammappaṭipanna’

‘paṭipanna’, ‘patipatti’: sự hành trì, thực hành.

Tu tập theo pháp là như thế nào? Các bài kinh này lần lượt nói đến việc quán chiếu Tam tướng trong năm uẩn. Người Tín mạnh thì hợp với Vô thường quán. Định mạnh thì hợp với Khổ quán. Tuệ mạnh thì hợp với Vô ngã quán.

Trong năm uẩn cũng vậy, người có trí tuệ chậm chạp thì hợp với đề mục Sắc uẩn. Người trí nhanh nhiều tà kiến thì hợp với Thọ quán. Trí nhanh thích lý luận thì hợp với Tâm quán. Người nhanh trí lại giỏi giáo lý thì hợp với Pháp quán.

Tới bữa nay mà có người hỏi thế nào là sắc uẩn. Tất cả những gì gọi là material (vật chất) là sắc uẩn. Thọ uẩn là tất cả những gì gọi là feeling. Tưởng uẩn là tất cả những gì gọi là perception, experience, idea, imagination….etc. Hành uẩn là khía cạnh thiện ác của tâm. Thức uẩn là cái biết đơn giản của sáu căn.

Đức tin mạnh thì hợp với Vô thường quán. Định mạnh thì thích ngó khía cạnh Khổ. Trí mạnh thì thích nhìn vô khía cạnh vô ngã. Ba cái này không rời nhau, thấy cái này rồi cũng sẽ thấy hai cái kia. Có người nhắc đến chuyện đời thì lập tức để ý đến khía cạnh phù du mong manh, có người thì lại chú ý khía cạnh đau khổ, có người thì lại chú ý đến khía cạnh giả hợp (composition). 

Ví dụ, đặt chân đến nơi nào đó, khi được hỏi đẹp không thì có người nói thấy cũng thường, có người nói đẹp quá, vậy là hai cá tính khác nhau rồi. Trong số người nói đẹp thì có người chú ý con sông đẹp, có người chú ý cánh đồng đẹp, có người thì nói cái triền đồi thoai thoải đẹp quá, người thì nói đứng trên núi này nhìn bao quát mới đẹp. Nghĩa là trong số những người khen đẹp thì mỗi người một kiểu. Trong số những người không thích thì mỗi người cũng chú ý đến một điểm nào đó đặc biệt để mà không thích. 

Cho nên, tùy nhân duyên của người nghe pháp mà Đức Thế Tôn tùy chỗ mà nói. Ta đã học xong bốn bài TÙY PHÁP. Viết chữ lớn để “đại công cáo thành”, quá sức hoan hỉ.

Ôn lại: Về tâm hành giả, mạnh về cái nào thì sẽ chú ý đến khía cạnh tương ứng trong Tam tướng. Trong số những người đức tin mạnh, thì ai cũng thích hợp với khía cạnh vô thường, nhưng trong số những người thích quán vô thường thì có kẻ thích quán Sắc, người thích quán Thọ, người thích quán Tâm. Trong số những người Tín mạnh thì cũng chia ra, người Tín mạnh Trí chậm cũng thích quán vô thường nhưng quán vô thường của Sắc; người Tín mạnh Trí nhanh thì quán vô thường của Tâm.
__________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

  1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma-sambuddhassa !

    Kính tri ân Sư. Con hiểu đôi chút. Mỗi ngày "Tùy pháp" mà sống thì "bớt làm khổ mình, bớt làm khổ nguời". Đến khi phước báu tròn đầy thì hết khổ. "Từng bước từng bước thầm" vậy.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa!

      Xóa

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.