Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (13)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (13)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[22] Chương I: Tương Ưng Uẩn (c)

B. Năm Mươi Kinh Ở Giữa
II. Phẩm A-La-Hán

I. Chấp Trước (Tạp 1. Ðại 2,4b) (S.iii,73)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp tóm tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) -- Ai chấp trước, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

-- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu, bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) -- Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt?

-- Ai chấp trước sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp trước thọ, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp trước tưởng... Ai chấp trước các hành... Ai chấp trước thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

6) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời nói vắn tắt này của Ta. Ai chấp trước sắc, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai chấp trước thọ... Ai chấp trước tưởng... Ai chấp trước các hành... Ai chấp trước thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không chấp trước, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Này Tỷ-kheo, lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài và ra đi.

8) Rồi Tỷ-kheo ấy sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, vì mục đích gì mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, mong cầu chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh; vị ấy, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy chứng tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa". Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

II. Suy Tưởng (S.iii,74)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) Rồi một Tỷ-kheo... bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, lành thay, Thế Tôn hãy thuyết pháp tóm tắt cho con... nhiệt tâm, tinh cần.

4) -- Ai suy tưởng, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

-- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) -- Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt:

6) -- Ai suy tưởng sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ... tưởng... hành... thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời nói vắn tắt này của Ta. Này Tỷ-kheo, ai suy tưởng sắc, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai suy tưởng thọ... tưởng... các hành... Ai suy tưởng thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không suy tưởng, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Này Tỷ-kheo, lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy... Vị Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

III. Hoan Hỷ (S.iii,75)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3). .. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp tóm tắt cho con... con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) -- Ai hoan hỷ, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma.

-- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) -- Như thế nào, này Tỷ-kheo, Ông hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt?

6) -- Ai hoan hỷ sắc, bạch Thế Tôn, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai hoan hỷ thọ... tưởng... các hành... Ai hoan hỷ thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn con đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy Ông đã hiểu một cách rộng rãi ý nghĩa lời Ta nói một cách vắn tắt. Ai hoan hỷ sắc, này Tỷ-kheo, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Ai hoan hỷ thọ... tưởng... các hành... Ai hoan hỷ thức, người ấy bị Ma trói buộc. Ai không hoan hỷ, người ấy được giải thoát khỏi Ác ma. Này Tỷ-kheo, lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy... Vị Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

IV. Vô Thường (Tạp 1, Ðại 2,3b) (S.iii,76)

1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi. Rồi một Tỷ-kheo... bạch Thế Tôn:

-- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con... con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần...

4) -- Cái gì vô thường, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông phải đoạn trừ lòng dục.

-- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) -- Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) -- Sắc là vô thường, bạch Thế Tôn, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là vô thường, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Như vậy lời Ta nói một cách vắn tắt, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là vô thường, này Tỷ-kheo, ở đây Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ là vô thường... Tưởng là vô thường... Các hành là vô thường... Thức là vô thường, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy... Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

V. Khổ (S.iii,77)

1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi. Rồi một Tỷ-kheo... bạch Thế Tôn:

-- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con... con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) -- Cái gì khổ, này các Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.

-- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) -- Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) -- Sắc là khổ, bạch Thế Tôn. Ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là khổ, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời Ta nói một cách vắn tắt, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là khổ, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục... Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là khổ, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy... Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

VI. Vô Ngã (Tạp 1, Ðại 2,3b) (S.iii,77)

1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi. Rồi một Tỷ-kheo... bạch Thế Tôn:

-- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con... con sẽ sống một mình, tịnh cư, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

4) -- Cái gì vô ngã, này Tỷ-kheo, ở đây Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.

-- Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu.

5) -- Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) -- Sắc là vô ngã, bạch Thế Tôn, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là vô ngã, ở đây, con phải đoạn trừ lòng dục. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời Ta nói một cách vắn tắt, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là vô ngã, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là vô ngã, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy... Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

VII. Không Ðáng Thuộc Tự Ngã (Tạp 1, Ðại 2,3c) (S.iii,79)

1-3) Nhân duyên ở Sàvatthi... Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con....

4) -- Cái gì không đáng thuộc tự ngã, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.

-- Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu, bạch Thiện Thệ.

5) -- Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) -- Sắc không đáng thuộc tự ngã, bạch Thế Tôn, ở đây, con cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ... Tưởng... Các hành... Thức không đáng thuộc tự ngã, ở đây, con cần phải đoạn trừ lòng dục. Bạch Thế Tôn, lời dạy vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Lời nói vắn tắt này của Ta, Ông đã hiểu một cách rộng rãi. Sắc không đáng thuộc tự ngã, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ.. Tưởng... Các hành...Thức không đáng thuộc tự ngã, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy... Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa.

VIII. Chỉ Trú Cho Ô Nhiễm (Tạp 1, Ðại 2,4a) (S.iii,79)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con....

4) -- Cái gì làm chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục.

-- Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu bạch Thiện Thệ.

5) -- Lời Ta nói một cách vắn tắt, này Tỷ-kheo, Ông hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như thế nào?

6) -- Sắc làm chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, bạch Thế Tôn, ở đây con cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ... Tưởng... Các hành... Thức làm chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, ở đây, con cần phải đoạn trừ lòng dục. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

7) -- Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo. Lời Ta nói một cách vắn tắt, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi. Sắc là chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Thọ... Tưởng.. Các hành... Thức là chỗ chỉ trú cho sự ô nhiễm, này Tỷ-kheo, ở đây, Ông cần phải đoạn trừ lòng dục. Lời nói vắn tắt này của Ta, này Tỷ-kheo, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

8-9) Rồi Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy... Tỷ-kheo ấy trở thành một vị A-la-hán nữa!

IX. Ràdha (Tạp 6, Ðại 2,37c) (S.iii,79)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

2-3) Rồi Tôn giả Ràdha đi đến Thế Tôn sau khi đến... bạch Thế Tôn:

-- Biết như thế nào, bạch Thế Tôn, thấy như thế nào đối với thân thể có thức này, và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có tư tưởng: "Ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên"?

4) -- Này Ràdha, phàm có sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần được thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".

5) Phàm có thọ...

6) Phàm có tưởng...

7) Phàm có các hành...

8) Phàm có thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần được thấy như thật với chánh trí tuệ là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".

9) Này Ràdha, do biết vậy, do thấy vậy, đối với thân có thức này, và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có tư tưởng: "Ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn tùy miên".

10). .. Tôn giả Ràdha trở thành một vị A-la-hán nữa.

X. Suràdha (S.iii,80)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

2-3). .. Rồi Tôn giả Suràdha bạch Thế Tôn:

-- Biết như thế nào, bạch Thế Tôn, thấy như thế nào đối với thân thể có thức này, và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có tư tưởng: "Ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn", vượt ngoài mọi phân biệt, thuần tịnh, khéo giải thoát?

4) -- Này Suràdha, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại... xa hay gần; sau khi thấy với chánh trí tuệ như thật tất cả các sắc là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", (vị ấy) được giải thoát, không có chấp thủ.

5-7) Phàm có thọ gì... có tưởng gì... có hành gì...

8) Phàm có thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; sau khi như thật thấy với chánh trí tuệ tất cả các thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi", (vị ấy) được giải thoát, không có chấp thủ.

9) Này Suràdha, do biết vậy, do thấy vậy, đối với thân có thức này, và đối với tất cả tướng ở ngoài, không có tư tưởng: "Ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn", vượt ngoài mọi phân biệt, thuần tịnh, khéo giải thoát.

10) Rồi Tôn giả Suràdha... trở thành một vị A-la-hán nữa.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm A La Hán

CHẤP TRƯỚC

Tiếp theo là một loạt kinh có nội dung gần giống nhau: Upadiyamanasutta, Mannamanasutta, Abhinandamanasutta, tôi gom chung tôi nói. Tôi có cái mộng giảng hết bộ kinh này rồi qua bộ kinh khác miễn sao mình không giảng thiếu thì thôi, giảng râu ria mất thời gian. Phải đi cho hết bộ kinh cho bà con có sự kiêu ngạo rằng ta đây đã học xong một bộ kinh (!)

Chư tỳ kheo thời Đức Phật mỗi khi sắp đi đâu xa thường hay đi đến gặp Đức Thế Tôn hoặc các vị cao đồ như ngài Xá Lợi Phất, Ānanda, Mục Kiền Liên… để trình thưa, hoặc nhận những lời can ngăn nếu Đức Phật hoặc các vị ấy thấy trước chuyện gì xảy đến cho mình. Có lần ngài Meghiya đi bát ngay một khu vườn đẹp quá sức, ngài nghĩ bụng khi nào đi bát về thì ghé vào đây nghỉ trưa và ngồi thiền. Đây là nơi suốt năm trăm kiếp liên tục là vườn ngự uyển, giờ đây là khu vườn xoài của một tư nhân. Đức Thế Tôn thấy trước chuyện xảy ra, Ngài nói: Không nên! Vị này cứ nằng nặc vì quá muốn, Đức Thế Tôn biết nghiệp của vị này đã tới lúc trổ quả, cứu không được nên Ngài đành im lặng. Đọc kinh những chỗ như thế này mình hiểu ra một số chuyện, Đức Phật là bậc đại bi, đại trí, ai Ngài cũng thương, nhưng Ngài không thể can thiệp vào nghiệp được. Vị này đang đi bát chung với Đức Thế Tôn, một tay cầm hai bình bát, một bát của mình, một bát của Thế Tôn. Khi Đức Phật cản, vị này nói: Thế Tôn không cho, con cũng đi. Rồi vị này lấy bình bát của Đức Phật để ngay ở ngã ba đường. Thế rồi ngài Meghiya đi vào nơi đó bị lưu manh đập cho một trận tả tơi hoa lá.

Vị tỳ kheo trong bài kinh này đến gặp Đức Phật: Bạch Thế Tôn con sắp đi xa, xin ngài cho con một câu để dựa vào đó con tu. Ngài dùng Phật trí nhìn căn tánh vị này và biết phải nói gì. Ngài nói: “Ai mà sống có chấp trước thì sẽ bị ác ma trói buộc.”

Chấp trước ở đây là biết 6 trần bằng sự chi phối của ái – mạn – kiến (taṇhāmānadiṭṭhi). Nhìn mà thích là ái, nhìn từ góc độ ‘tôi nhìn’ là mạn. Một hành giả tu Tứ Niệm Xứ nhìn cái gì đó bên ngoài hay thân tâm của mình giống như quan sát một người khác. Chúng ta thì luôn nhìn từ góc độ ‘tôi nhìn’. Kiến là nhìn bằng sự chi phối, tác động, nhuốm màu của đoạn kiến hoặc thường kiến.

Đoạn kiến gồm ba kiểu nhận thức: 

1/Vô hành kiến: chủ trương thiện ác không có, muốn làm gì thì làm, không có chuyện làm lành cho quả vui, làm ác cho quả khổ; 

2/ Vô nhân kiến: mọi thứ trên đời ngẫu nhiên mà có không do nhân duyên gì hết; 

3/ Vô hữu kiến: phủ nhận toàn bộ những gì mình không chứng minh được trong khả năng của mình. Quan điểm Vô hữu kiến không khoa học, muốn phủ nhận hay tin cái gì đó hãy có bằng chứng, không phải tất cả những gì không chứng minh được đều là không có.

Thường kiến: 

1/Tin có một cái tôi; 

2/Tin có đấng tối cao; 

3/Tin có cảnh giới vĩnh hằng.

Nhờ câu nói của Đức Phật, Vị tỳ kheo đi đứng nằm ngồi, ăn uống nhai nuốt, nhìn ngửi sờ chạm… trong mọi sinh hoạt đều luôn nhớ câu của Đức Phật: Ai sống trong chấp trước thì nằm trong vòng chi phối trói buộc của Ma vương.

Ma vương là gì? Ngũ ma gồm:

– Ác Ma thiên tử, vua cõi Dục thiên cao nhất cũng là ma.

– Phiền não cũng là ma.

– Năm uẩn cũng là ma.

– Pháp hữu vi nói chung (tức năm uẩn) cũng là ma.

– Cái chết cũng là ma

Đời sống chính là sự tiếp xúc sáu trần, còn biết sáu trần bằng sự chi phối của Ái, Mạn, Kiến tức là còn sống trong chấp trước, kẻ nào sống trong chấp trước thì sẽ nằm trong sự chi phối trói buộc của năm thứ ma này.

Ác Ma thiên tử có thói quen rất lạ là ghét người tu hành chơn chánh, thích nhìn thấy ai sa đọa. Từ khi thái tử Tất Đạt cưỡi ngựa rời hoàng thành Kapilavatthu đi tu, suốt bảy năm trời Ác Ma theo bén gót để quan sát, theo dõi, để ý xem con người này bây giờ ra sao, tâm tư đang nghĩ gì, có bị thối chí trong tu hành hay không. Theo dõi không phải để chăm sóc, mà sợ Ngài tu hành có kết quả.

Một lần Ác Ma xuống thưa với Thế Tôn: Bảy năm trời con theo dõi Thế Tôn mà không tìm thấy khuyết điểm của ngài. Tâm trạng của con giống như con quạ nhìn cục đá mà tưởng là cục mỡ. Ác Ma sau này cũng là vị Chánh Đẳng Chánh Giác nhưng bây giờ thì có tật xấu phá người khác. Một vị Chánh Đẳng Chánh Giác thì như mẹ hiền của Tam giới, là con đường giải thoát cho Tam giới, vậy mà Ác Ma đành đoạn thỉnh Ngài Niết bàn, lúc đó Ngài mới 35 tuổi. 

Ngài vừa rời gốc bồ đề ra đi thì Ác Ma quỳ xuống nói: Bạch Thế Tôn, chuyện Thế Tôn cần làm đã làm rồi, Thế Tôn muốn trở thành vị Chánh Đẳng Giác thì cũng xong rồi, xin thỉnh Thế Tôn Niết bàn, đừng sống nữa. Đức Phật trả lời: Ta ra đời vì đại bi độ người, cho đến bao giờ mà các đệ tử của ta chưa đủ sức hoằng pháp thì ta vẫn tiếp tục có mặt ở đây. Khi nào chúng tỳ kheo các đệ tử nam nữ tăng ni của ta đủ sức hoằng pháp thì ta sẽ Niết bàn. Bốn mươi lăm năm sau, vào một ngày Rằm tháng Giêng, còn ba tháng nữa Ngài 80 tuổi, Ác Ma xuống nhắc lại lần nữa: Bạch Thế Tôn, ngày xưa Thế Tôn có nói như vậy bây giờ đệ tử Thế Tôn đông quá rồi, số người đủ sức hoằng pháp không ít nữa. Đức Phật trả lời: Thôi được, ta hứa trong ba tháng nữa ta sẽ Niết bàn.

Nội dung bài kinh này là Đức Phật xác định khi nào mình còn biết 6 trần bằng sự chấp thủ thì ngày đó mình còn quẩn quanh trong sự chi phối của Ma Vương

SUY TƯỞNG (Maññamānasutta)

Tựa đề này dịch ‘Suy Tưởng’ là không chính xác. ‘Maññamāna’: quan niệm. Chữ này từ động từ ‘maññati’: động từ ‘quan niệm’. ‘Maññati’: đánh giá vấn đề dựa trên một lập trường hay công thức nào đó.

Ở đây Ngài xác nhận, khi nào mình còn đánh giá sáu trần qua sự chi phối của của Ái – Mạn – Kiến thì gọi là quan niệm. Biết là sự nhận thức tinh khôi và kịp thời, là sự nhận thức tinh khôi và kịp thời, quan niệm là cái biết cằn cỗi, khuôn sáo. Người hiểu đạo, hành giả Tứ Niệm Xứ hay thánh nhân chỉ có là cái biết cằn cỗi, khuôn sáo. Người hiểu đạo, hành giả Tứ Niệm Xứ hay thánh nhân chỉ có biết chớ không có quan niệm, không suy tư theo lối mòn.

Tôi nhớ câu chuyện có một anh nhậu đi về nhà mà không chịu vào nhà cứ loay hoay ở cột đèn. Người ta hỏi thì anh ta nói không biết chìa khóa rơi mất chỗ nào nhưng vì cột đèn có ánh sáng nên cứ tìm chỗ cột đèn. Tức là anh giải quyết vấn đề theo cách mình có chứ không phải giải quyết theo cách nên có.

HOAN HỈ

Bài kinh này cũng vậy, cũng một vị tỳ kheo trước khi đi xa đến xin Thế Tôn một câu yếu chỉ để cầm tay. Ngài dạy rằng: Ở đâu, khi nào còn sống trong sự hoan hỉ với sáu trần thì còn bị ma trói buộc. Hoan hỉ ở đây nghĩa là nhìn sáu trần bằng sự thích thú qua sự chi phối của Ái – Mạn – Kiến

Ba bài kinh này tập chú vào một chuyện: Không thưởng thức sáu trần bằng sự chi phối của Ái – Mạn – Kiến.

Toàn bộ đời sống của chúng ta từ lúc sơ sinh đến khi chết đi thì chỉ nhận biết thế giới này qua một cách: theo đuổi cái mình thích và trốn chạy, từ chối cái mình ghét. Vì vậy, tất cả phiền não gom chung vào hai chữ ‘Tham – Ưu’ trong kinh Tứ Niệm Xứ. “Ở đây vị tỳ kheo tinh tấn sống quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp tinh tấn chánh niệm diệt trừ tham ưu ở đời…”.

Tham ái ở mức độ thô thiển thì còn đi chung với bất mãn, tức là cặp Dục ái và Sân luôn đi chung. Ở cõi Phạm thiên dù là phàm phu cũng tạm thời không còn Dục ái và Sân. Muốn diệt trừ Dục ái và Sân rốt ráo thì chỉ có trí tuệ Tam quả. Từ Sắc ái, Vô sắc ái trở lên không còn bực mình nữa, chỉ còn có thích. Bởi vì, toàn bộ thế giới nằm trong ba khổ: Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ. Ở cõi Dục có đủ ba loại khổ. Ở các cõi Phạm thiên chỉ còn lại hai loại khổ (hoại khổ và hành khổ). Khổ khổ ở cõi Dục thiên cũng khác ở cõi Người và cõi đọa xứ ở điểm là hầu như không có thân khổ, chỉ có tâm khổ (hai cái này nằm trong Khổ khổ). Nghĩa là càng lên cao thì cái khổ càng ít đi, càng vi tế, khó thấy hơn. Cái khổ thân của loài người cũng nhẹ nhàng hơn các loại đọa xứ. Càng xuống thấp thì khổ càng nhiều.

Đời sống chỉ có thích và ghét, khổ và lạc. Có được cái mình thích thì vui, chịu đựng cái mình ghét thì bất mãn. Vui hay bất mãn đều là phiền não, đều là nhân sanh tử hết, gián tiếp hoặc trực tiếp. Hành giả Tứ Niệm Xứ là người sống chánh niệm, tùy theo sức của mình mà hạn chế tối đa thích và ghét. Nghĩa là thấy cái gì xảy ra thì chỉ biết tới đó thôi đừng suy diễn thêm. Suy diễn thêm nữa thì gọi là maññati’, maññamāna: quan niệm, sống theo lối mòn.

Đã đúng bảy giờ rưỡi. Xin đảnh lễ Sư trưởng, đảnh lễ chư tăng nếu có. Gặp lại quí vị ngày thứ Bảy. Tất cả công đức có được xin cúng dường trước là Sư Trưởng được sức khỏe tốt, thọ và không có gì phải ưu tư. Cũng cầu nguyện cho tất cả Phật tử trong room cũng được y chang như vậy. Không có chuyện phước hồi hướng cho người này thì phần của người kia bị mất, bị mẻ. Phước báu không giống như vật chất kiểu mười đồng cho người kia tám đồng người nọ còn hai đồng. Nói là chia hết chớ chuyện đó vốn không bao giờ có. Nếu Sư trưởng không biết tôi hồi hướng, hoặc Sư trưởng biết, mà không vui, không sẵn sàng tùy hỷ thì coi như cũng trớt quớt. Còn một người không có mặt trong room này, họ chỉ nghe lại là tất cả buổi giảng này, công đức được chia đều cho tất cả chúng sinh nào biết đến, cho tất cả những ai cần phước báu, dù họ chỉ nghe sau năm mươi năm, họ nghe lại lúc tôi đã xanh cỏ rồi, họ nghe tôi chia cho họ mà họ vui tốt.

Các bài kinh: Vô Thường (Aniccasutta), Khổ (Dukkhasutta) Vô Ngã (Anattasutta), Không Ðáng Thuộc Tự Ngã  (Anattaniyasutta), Chỉ Trú Cho Ô Nhiễm (Rajanīyasaṇṭhitasutta), Ràdha (Rādhasutta), Suràdha (Surādhasutta) giống nhau nên mình chỉ lướt qua thôi. 

Đức Phật dạy năm uẩn là vô thường, khổ, vô ngã, những thứ đó không đáng để mình gắn cái tôi và của tôi vào đó.

Bài kinh Chỉ Trú Cho Ô Nhiễm, Ngài dạy nên lưu ý để thấy rằng năm uẩn rất có thể là chỗ dựa cho phiền não, vì vậy hãy cẩn trọng trong sinh hoạt, ăn uống, nhìn ngắm, nói năng, làm việc… Thái độ của chúng ta đối với năm uẩn là sự tỉnh thức và sự nhận thức chớ không phải là bi quan chán đời của kiểu người không hiểu đạo. Năm uẩn có thể là nguồn tác động phiền não.

Chấp ngã gồm có hai: ‘Ahankāra’: chấp ngã, tôi; ‘Mamankāra’ chấp ngã sở, của tôi. Đây là hai chữ quí vị phải nhớ, học kinh điển Pāḷi mà không biết hai chữ này thì cũng hơi đáng tiếc.

Ngài nhấn mạnh, thế giới này không có gì không là vô thường. Cái gì thuộc về thời điểm quá khứ, hiện tại, vị lai, xa, gần, thô, tế, bên trong, bên ngoài… mỗi cá nhân, tất cả 11 trường hợp này thì trong bất cứ thời điểm, trường hợp nào năm uẩn vẫn luôn luôn vô thường, vô ngã. Dù mình có là ông vua ở đâu đi nữa, có tu tập thiền Chỉ, thiền Quán, chứng đắc cái gì đi nữa thì cái đó cũng nằm trong Tam tướng. 

Có người đam mê danh lợi, quyền lực, tình cảm, nhan sắc, khi biết đạo rồi thì coi chúng không ra gì, họ chuyên tâm tu hành; nhưng khổ thay, lúc đó lại thấy đức hạnh, trí tuệ của mình là ghê gớm. Giới hạnh, trí tuệ, kiến thức, thiền định là cần thiết nhưng chúng không phải là cái để mình dựa vào đó để thấy mình hay, mình giỏi. 

Năm uẩn trong bất cứ hoàn cảnh nào tình trạng nào cũng là đồ giả, đáng chán, đáng lìa bỏ, đáng để mình ly tham ly dục. Ngày xưa khi đọc cái này tôi chán, tôi nghĩ có gì đâu mà nhắc tới nhắc lui hoài. Giờ càng có tuổi càng thấm, đây là lời khẳng định của Đức Phật. Trong bất cứ tình huống nào, hễ là năm uẩn là luôn luôn có vấn đề.
________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

  1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma-sambuddhassa!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa!

      Xóa

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.