Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (12)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (12)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[22] Chương I: Tương Ưng Uẩn (c)

B. Năm Mươi Kinh Ở Giữa
I. Phẩm Tham Luyến

V. Bảy Xứ (Sattatthàna) (Tạp 2, Ðại 2,10a; 498c; 875b) (Tăng 35, Ðại 2,754b) (S.iii,61)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) -- Vị Tỷ-kheo thiện xảo trong bảy xứ, này các Tỷ-kheo, quán sát theo ba cách, được gọi là một vị toàn vẹn trong Pháp và Luật này, đã thành tựu viên mãn, một bậc tối thượng nhân.

4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là vị Tỷ-kheo thiện xảo trong bảy xứ?

5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo biết rõ (pajànati) sắc, biết rõ sắc tập khởi, biết rõ sắc đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt, biết rõ vị ngọt của sắc, biết rõ sự nguy hiểm của sắc, biết rõ sự xuất ly của sắc.

6-8) ... biết rõ thọ... biết rõ tưởng... biết rõ các hành...

9) ... biết rõ thức, biết rõ thức tập khởi, biết rõ thức đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến thức đoạn diệt, biết rõ vị ngọt của thức, biết rõ sự nguy hiểm của thức, biết rõ sự xuất ly của thức.

10) Này các Tỷ-kheo, thế nào là sắc? Bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo thành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sắc. Do các món ăn tập khởi nên sắc tập khởi. Do các món ăn đoạn diệt nên sắc đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến sắc đoạn diệt, tức là chánh tri kiến... chánh định...

11) Duyên sắc khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của sắc. Sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại của sắc, đây là sự nguy hiểm của sắc. Sự nhiếp phục dục tham đối với sắc, sự đoạn tận dục tham đối với sắc, đây là sự xuất ly của sắc.

12) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri sắc là như vậy, thắng tri sắc tập khởi là như vậy, thắng tri sắc đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến sắc đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của sắc là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của sắc là như vậy, thắng tri sự xuất ly của sắc là như vậy; họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sắc. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

13) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri sắc là như vậy, thắng tri sắc tập khởi là như vậy, thắng tri sắc đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của sắc là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của sắc là như vậy, thắng tri sự xuất ly của sắc là như vậy; do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, họ được giải thoát, không có chấp thủ. Họ được khéo giải thoát. Những ai được khéo giải thoát, họ được vẹn toàn. Những ai vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ? Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ thân này: Thọ do nhãn xúc sanh... thọ do ý xúc sanh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thọ. Do xúc tập khởi nên thọ tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên thọ đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thọ đoạn diệt, tức là chánh tri kiến... chánh định.

15) Do duyên thọ khởi lên lạc hỷ gì, đây gọi là vị ngọt của thọ. Cảm thọ vô thường, khổ, vô ngã, đây gọi là nguy hiểm của thọ. Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với thọ, đây gọi là sự xuất ly của thọ.

16) Này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thọ là như vậy, thắng tri thọ tập khởi là như vậy, thắng tri thọ đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thọ đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của thọ là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của thọ là như vậy, thắng tri sự xuất ly của thọ là như vậy; họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với thọ. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

17) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thọ là như vậy... thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

18-20) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tưởng? Này các Tỷ-kheo, có sáu tưởng thân này: Sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tưởng. Do xúc tập khởi nên tưởng tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên tưởng đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến tưởng đoạn diệt... thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

21) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các hành? Này các Tỷ-kheo, có sáu tư thân: Sắc tư... pháp tư. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là các hành. Do xúc tập khởi nên các hành tập khởi. Do xúc đoạn diệt nên các hành đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định.

22) Do duyên hành khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của hành. Các hành vô thường, khổ, vô ngã, đây là nguy hiểm của hành. Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với các hành, đây là sự xuất ly của các hành.

23-24) Này các Tỷ-kheo, những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri các hành là như vậy, thắng tri các hành tập khởi là như vậy, thắng tri các hành đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến các hành đoạn diệt là như vậy; họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với các hành. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này... Những ai được vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

25) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức? Này các Tỷ-kheo, có sáu thức thân này: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thức. Do danh sắc tập khởi nên thức tập khởi. Do danh sắc đoạn diệt nên thức đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo Tám ngành đưa đến thức đoạn diệt đối với thức, tức là chánh tri kiến... chánh định.

26) Do duyên thức khởi lên lạc hỷ gì, đây là vị ngọt của thức. Thức vô thường, khổ, vô ngã, đây là nguy hiểm của thức. Sự nhiếp phục dục tham, sự đoạn tận dục tham đối với thức, đây là sự xuất ly của thức.

27) Này các Tỷ-kheo, các vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thức là như vậy, thắng tri thức tập khởi là như vậy, thắng tri thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của thức là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của thức là như vậy, thắng tri sự xuất ly của thức là như vậy; họ hướng về thực hiện yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với thức. Những thực hiện ấy, họ khéo thực hiện. Những ai khéo thực hiện, những vị ấy có chân đứng trong Pháp và Luật này.

28) Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thắng tri thức là như vậy, thắng tri thức tập khởi là như vậy, thắng tri thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri con đường đưa đến thức đoạn diệt là như vậy, thắng tri vị ngọt của thức là như vậy, thắng tri sự nguy hiểm của thức là như vậy, thắng tri sự xuất ly của thức là như vậy; do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thức, họ giải thoát, không chấp thủ. Họ được khéo giải thoát. Những ai được khéo giải thoát, họ được vẹn toàn. Những ai được vẹn toàn, thời không thể nêu rõ sự luân chuyển của họ.

29) Này các Tỷ-kheo, như vậy là vị Tỷ-kheo thiện xảo trong bảy xứ.

30) Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là vị Tỷ-kheo quán sát theo ba cách? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát theo giới, quán sát theo xứ, quán sát theo duyên khởi. Như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo quán sát theo ba cách.

31) Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo thiện xảo trong bảy xứ, quán sát theo ba cách, được gọi là một vị toàn vẹn trong Pháp và Luật này, đã thành tựu viên mãn, một vị tối thượng nhân.

VI. Chánh Ðẳng Giác. (S.iii,54)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) -- Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng Giác. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, được giải thoát nhờ trí tuệ, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, giải thoát nhờ trí tuệ.

4) Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thọ, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng Giác. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, được giải thoát nhờ trí tuệ, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thọ, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, giải thoát nhờ trí tuệ.

5-7) Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt tưởng... đoạn diệt các hành... đoạn diệt thức, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng Giác. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, được giải thoát nhờ trí tuệ, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt thức, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, giải thoát nhờ trí tuệ.

8) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là sự sai biệt, thế nào là sự đặc thù, thế nào là sự sai khác giữa bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, và bậc Tỷ-kheo được giải thoát nhờ trí tuệ?

9) -- Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ y chỉ. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu được Thế Tôn nói lên ý nghĩa của lời này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì!

-- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói:

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

10) Thế Tôn nói như sau:

-- Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, làm cho khởi lên con đường (trước kia) chưa khởi, là bậc đem lại con đường (trước kia) chưa được đem lại, là bậc tuyên thuyết con đường (trước kia) chưa được tuyên thuyết, bậc tri đạo, bậc ngộ đạo, bậc thuần thục về đạo. Còn nay, này các Tỷ-kheo, các vị đệ tử là những vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu (đạo).

11) Này các Tỷ-kheo, đây là sự sai biệt, sự đặc thù, sự sai khác giữa Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác và bậc Tỷ-kheo được giải thoát nhờ trí tuệ.

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66)

1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.

2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

5) Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được các thọ như sau: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"

6) Và này các Tỷ-kheo, vì thọ là vô ngã. Do vậy, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"

7) Tưởng là vô ngã...

8) Các hành là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các hành như sau: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi chẳng phải như thế này!"

9) Và này các Tỷ-kheo, vì các hành là vô ngã. Do vậy, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi không phải như thế này!"

10) Thức là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được các thức như sau: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"

11) Và này các Tỷ-kheo, vì thức là vô ngã. Do vậy, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"

12) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

-- Là vô thường, bạch Thế Tôn!

-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-- Là khổ, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: " Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

13-15) -- Thọ... Tưởng... Các hành...

16) Thức là thường hay vô thường?

-- Là vô thường, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?

-- Là khổ, bạch Thế Tôn.

-- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

17) -- Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".

18) Phàm thọ gì...

19) Phàm tưởng gì...

20) Phàm các hành gì...

21) Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".

22) Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm y đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

23) Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Tham Luyến

BẢY XỨ (Sattatthanasutta)

Sáng nay mình học kinh Bảy Xứ. ‘Satta’: 7; ‘thana’: nơi chốn, đề tài. ‘Sattatthanasutta’: bảy xứ. Tựa kinh nghe mơ hồ, nội dung kinh thì rất khô khan, nhưng đây mới chính là tinh hoa, cốt lõi của Phật pháp.

“5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo biết rõ (pajānati) sắc, biết rõ sắc tập khởi, biết rõ sắc đoạn diệt, biết rõ con đường đưa đến sắc đoạn diệt, biết rõ vị ngọt của sắc, biết rõ sự nguy hiểm của sắc, biết rõ sự xuất lycủa sắc”.

Pháp, tập khởi, đoạn diệt, đạo, vị ngọt, nguy hiểm, xuất ly, tất cả là 7. Bảy khía cạnh này [nhân với] năm uẩn; đây là nội dung của kinh. Bây giờ chúng ta làm việc từng phần.

Năm uẩn gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ở đây Đức Phật gọi “này các tỳ kheo” bởi trước mặt Ngài là chư tăng, nhưng chúng ta phải hiểu ngầm là tất cả hành giả.

Quán sát năm uẩn trên bảy khía cạnh

1. Sắc. Hành giả biết rõ sắc là gì (4 đại và 24 sắc y đại sinh). Bốn đại là do đoàn thực mà có. Đoàn thực tạo ra sắc uẩn.

2. Tập khởi của sắc là đoàn thực.

3. Đoạn diệt. Sắc đoạn diệt là sự vô thường của sắc. Và Sắc đoạn diệt ở đây cũng là sự chấm dứt của sắc uẩn.

4. Con đường. Con đường dẫn đến sự đoạn diệt đó gồm có 2:

(1) Nhân tạo ra nó không còn nữa, tương đối và tuyệt đối.

(2) Con đường dẫn đến sự đoạn diệt đó là Bát Thánh Đạo, hay sự gián đoạn của duyên tạo.

Bốn khía cạnh đầu tiên hiểu theo nghĩa Tứ đế cũng được mà hiểu theo nghĩa Tam tướng cũng được. Nói rằng sự đoạn diệt của sắc uẩn chính là sự vô thường của sắc uẩn cũng được; mà nói rằng sự đoạn diệt của sắc uẩn chính là sự vắng mặt sắc uẩn tuyệt đối ở người giải thoát sinh tử cũng được (ám chỉ Niết bàn).

Duyên tạo ra sắc uẩn cũng có 2: Duyên trực tiếp là đoàn thực; Duyên gián tiếp là tham ái trong sắc uẩn.

Trong lúc tu tập Tứ Niệm Xứ, hành giả biết rõ trong các oai nghi: nằm ngồi, đi đứng, ăn uống, tắm rửa, kỳ cọ, gãi, giơ tay… toàn bộ là sắc uẩn. Hành giả biết rõ cái thích, cái tham trong những gì thuộc sắc uẩn chính là duyên khởi của sắc uẩn. Biết cái thích này tạo ra tham ái. Hành giả biết rõ Niết bàn là sự vắng mặt của sắc uẩn và sự vắng mặt của cả tham ái trong sắc uẩn. Hành giả cũng biết Bát Chánh Đạo là con đường dẫn tới sự chấm dứt vĩnh viễn tuyệt đối của năm uẩn. Như vậy sự đoạn diệt của sắc uẩn có hai nghĩa: không còn hiện hữu nữa, biến mất (theo nghĩa Tam tướng) và không còn hiện hữu nữa (theo nghĩa Niết bàn).

Trong bảy khía cạnh này, 4 khía cạnh đầu là quan sát Bốn Đế trong năm uẩn. Có nghĩa là nhìn vào biết rõ đây là Sắc, đây là Thọ, đây là Tưởng, đây là Hành, đây là Thức.

-Biết rõ bản thân mỗi uẩn là khổ, đó là trí tuệ trong Khổ đế.

-Biết rõ tham ái trong năm uẩn là duyên tạo ra năm uẩn, đó là trí tuệ về Tập đế.

-Biết rõ Niết bàn là sự vắng mặt tuyệt đối của năm uẩn (Khổ đế) và tham ái trong năm uẩn (Tập đế), đó là trí tuệ về Diệt đế

-Biết rõ Bát Chánh Đạo là con đường dẫn đến sự chấm dứt Khổ đế và Tập đế, tức là con đường dẫn đến sự chứng ngộ Niết bàn. Đó là trí tuệ về Đạo đế.

5. Vị ngọt. Hành giả biết rõ vị ngọt của năm uẩn là Hỷ (trong tâm) và Lạc (trong thân) là vị ngọt của các uẩn.

Trong A-tỳ-đàm nói rõ, cái gì làm cho tâm mình thoải mái dễ chịu thì gọi là ‘hỷ’, làm cho thân mình thoải mái thì gọi là ‘lạc’. Cũng có trường hợp hỷ và lạc được dùng chung, ‘lạc’ cũng có khi dùng cho tâm. Trời nực mà có được sự mát mẻ của quạt máy, máy lạnh, đó là sự thoải mái của sắc uẩn. Nhớ lại chuyện gì thấy vui thấy thích, đó là vị ngọt của bốn danh uẩn; bốn danh uẩn không bao giờ rời nhau.

6. Nguy hiểm. Năm uẩn trong tình trạng như ý thì ngọt ngào. Nhưng khi không được như ý thì cay đắng, như khi chúng biến đổi không còn như ý ta muốn nữa. Sự ngọt ngào trong thế gian này đều là (1) giả hợp, do (2) ngộ nhận mà có và đều (3) phù du. Ba khía cạnh (1) (2) (3) này gọi chung là “mặt trái của năm uẩn” (adīnava), ngài Minh Châu dịch là ‘sự nguy hiểm’. Chữ ‘adīnava’có ngàn lẻ một nghĩa.

Hạnh phúc trên thế gian này hội đủ ba khía cạnh: giả hợp, ngộ nhận, phù du. Giả hợp nghĩa là do sự cộng lại của bao nhiêu thứ nhân duyên chứ không phải khơi khơi mà có. Ví dụ có đói thì ăn mới thấy ngon, có khát thì uống mới ngon, có mỏi mệt nằm mới đã, có bệnh thì cạo gió mới đã chứ không bệnh không thể nào chịu nổi chuyện cạo gió hay xông. Ngộ nhận bởi vì mình không hiểu mọi thứ là giả hợp, vì vậy mình mới thích cái này cái kia. Do hiểu lầm mà có “tôi”, “của tôi”. Hạnh phúc không phải là một thực tại độc lập mà là sự cộng hưởng lắp ráp của nhiều thứ.Những gì gọi là hạnh phúc thì đều có rồi mất, đều phù du. Mặt trái của năm uẩn là sự biến đổi không như ý mình.

7. Sự xuất ly. Sự xuất ly hay lìa bỏ đối với năm uẩn là sự ly tham, không còn ham thích trong năm uẩn nữa, nhờ vậy không còn tiếp tục đầu tư uẩn mới.

Đó là quán sát năm uẩn trên bảy khía cạnh. Tiếp theo là quán sát 5 uẩn trên 3 khía cạnh: 18 giới, 12 xứ, 12 duyên khởi.

Quán sát 5 uẩn trên 3 khía cạnh:

1. Quán chiếu 5 uẩn qua 18 giới:

18 giới: 6 căn, 6 cảnh, 6 thức. Toàn bộ thế giới này chỉ nằm trong con số 18. Năm uẩn chỉ là 18 giới.

Bây giờ tôi hỏi quí vị, người ta nói năm châu bốn biển thì bốn biển chiếm phần lớn diện tích trên hành tinh, đúng không? Vậy toàn bộ những gì thuộc về đất (lục địa) và nước (đại dương) cộng với bảy tỷ người, có phải là cảnh để mình biết không, thuộc cảnh nào trong 6 cảnh? Cả 6 cảnh luôn!

Tôi biết rất nhiều Phật tử, ở châu Âu này cũng có, một là không biết, hai là biết nhưng hiểu không tới, ba là biết nhưng hiểu lầm, hiểu sai, bốn là biết nhưng quên. Trong khi đó cứ nghĩ mình đã học xong, học rồi, nhưng phải biết như thế nào mà khi chạm tới là bật ra thì mới gọi là của mình.

Toàn bộ tất cả mọi thứ trong thế gian này đều là 6 cảnh. Sáu cảnh chỉ là cảnh khi chúng được biết đến; cái biết đó là 6 thức và chỗ dựa cho 6 thức đó là 6 căn. Như không có mắt thì cái biết cảnh sắc dựa vào đâu mà có. Như vậy, toàn bộ thế giới này đều là con số 18. Cảnh chỉ gọi là cảnh khi nó được biết.

Chỗ dựa cho 6 thức gồm thần kinh thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, và xúc giác. Riêng về chỗ dựa của ý thức thì tùy loại chúng sinh: Có loại thì là một chỗ nào đó trong cơ thể; với Phạm thiên Vô sắc thì tâm hữu phần Bhavanga là chỗ nương cho ý thức.

Xưa nay ta vẫn theo truyền thống tin rằng chỗ dựa của sắc ý vật là ở tim nhưng đó là nói theo kiến giải khoa học ở Ấn độ trong giai đoạn sớ giải được viết ra. Đọc kỹ chú giải thì điều này cũng chỉ là một đề nghị (suggestion) chớ không phải là quyết định (conclusion). Hôm nay khoa học lấy tim mình ra rồi cho mình chạy tim giả mình vẫn sống. Có những loài cắt đôi ra chúng vẫn sống. Vì vậy trong kinh Đức Phật dùng chữ: “Yaṃ rūpaṃ nissāya” tâm nương chỗ nào, thì chỗ đó được gọi là sắc ý vật, chỗ nương của ý thức.

Tôi nói ra thì kỳ, bà con nói là tôi đi quảng cáo kiếm tiền, nhưng ở trong tình thế bà con hiểu lầm tôi cũng nói. Đó là nên đọc cuốn Chuyện Phiếm Thầy Tu tập hai, trong đó khác hẳn quyển một. Tôi sẽ đem ra bàn lại hết tất cả những vấn đề ngộ nhận trong pháp học và pháp hành, mỗi đề tài chỉ khoảng một trang trở xuống, bằng giọng nửa đùa nửa thật, ví dụ hữu phần là gì, sắc ý vật là gì. Người không biết Vi diệu pháp là cái gì cũng đọc được. Có những người không tin chú giải, cho rằng chú giải là của đời sau và mạt sát coi rẻ chú giải, nhưng thử hỏi nếu không tin chú giải thì tin ông sư nào. Nhưng cắm đầu cắm cổ coi chú giải là chân lý tuyệt đối thì cũng chết.

2. Quán chiếu 5 uẩn qua 12 xứ:

Có trường hợp hành giả chỉ nhìn thế giới này qua con số 12, tức là 6 căn và 6 cảnh. Căn ở đây gồm cả thức. Con mắt và nhãn thức kể thành một. Cái biết (căn và thức) và cái được biết (cảnh). Như vậy là toàn bộ thế giới này nằm trong con số 12

3. Quán chiếu 5 uẩn qua 12 duyên khởi:

Lúc mắt nhìn hay tai nghe biết rõ đây là nhãn xứ hay nhĩ xứ (tức Nhập trong duyên khởi). Lục nhập duyên cho 6 xúc. Sáu xúc duyên cho 6 thọ. Sáu thọ duyên cho 6 ái. Sáu ái duyên cho Tứ thủ. Tứ thủ duyên cho 2 hữu. Hai hữu duyên cho sinh, già, đau, chết, sầu bi khổ ưu não.

Như vậy là khi nhìn cái gì đó tôi thích, tôi có thể ghi nhận đây là nhãn xúc cũng được, nhãn thọ cũng được, nhãn nhập cũng được, hoặc ghi nhận là ái duyên cho thủ cũng được. Quán chiếu năm uẩn trên 12 duyên khởi là vậy. Khi thấy cái gì thích biết rằng đây là ái. Ái này ở mức độ sâu hơn chính là thủ. Chính vì có thủ nên mới có nghiệp hữu và sanh hữu. Nghiệp hữu là thiện ác, sanh hữu là tâm tái tục. Chính vì có tâm thiện ác nên mới có tâm tái tục cõi cao và cõi thấp. Chính vì có tâm tái tục mới có sanh – già – đau – chết. Tâm tái tục trong buổi đầu đời gọi là tâm tục sinh; ngay sau đó thì nó không còn là tâm tục sinh nữa, nó diệt đi và một loại tâm khác giống y như vậy được gọi là tâm hữu phần. Cuối đời mình chết cũng là tâm đó. (Đây là chỗ dễ hiểu lầm. Khi một tâm thiện hay bất thiện xuất hiện sẽ tạo ra hai thứ nghiệp tái sinh và bình sinh. Nghiệp tái sinh là khả năng tạo ra tâm đầu thai cho một kiếp sống nào đó, mỗi cái tâm chỉ tồn tại một sát na rồi mất. Sau khi sinh vào cõi nào đó rồi thì loại tâm thứ hai xuất hiện suốt đời sống, đó là tâm hữu phần (bhavanga), tâm này cũng do thiện ác đời trước tạo ra. Nên kinh mới nói tục sinh, hữu phần và tâm mệnh chung chỉ là một nhưng ‘một’ ở đây là do một nghiệp thiện ác tạo ra, không phải là một tâm.)

Hành giả khi nào nhìn thấy tâm mình, biết rõ tâm mình đang biết cảnh sắc, biết cái này là nhãn xứ, nhãn nhập; muốn thấy cảnh sắc cảnh thinh thì phải có xúc có thọ. Không thể nào lúc nhìn, lúc nghe mà không có xúc, không có thọ; giống như ánh sáng mất thì bóng tối tới, hai trạng thái (mất và xuất hiện) cùng một lúc; hoặc khi đắc cử tổng thống thì cùng lúc có quyền lực.

Tôi có nghe câu hỏi này rất nhiều lần: Xúc duyên cho thọ, thọ không duyên cho ái mà duyên cho sân thì tính sao? Tại sao Đức Phật chỉ đề cập thọ duyên cho ái? Khi được hỏi như vậy, phải trả lời rằng đức Phật trong trường hợp này chỉ nói đến lý do sinh tử nên chỉ nhắc đến trường hợp thọ duyên ái. Ngài đang nói trường hợp vì đâu có tấm thân này. Người không có tâm sân vẫn còn tái sinh được, đó là trường hợp của vị thánh A-na-hàm (Bất lai hoặc Tam quả).

Nhìn kỹ lại, không một thứ nào trong 12 duyên khởi lại nằm ngoài năm uẩn. Như vậy quán chiếu 12 duyên khởi cũng quán chiếu năm uẩn trên khía cạnh duyên khởi.

Đức Phật dạy rằng một người sống quán chiếu năm uẩn qua các khía cạnh vừa nói (7 khía cạnh, 18, 12, 12 duyên khởi) được gọi là satatavihārī bậc thường xuyên tỉnh thức, thường xuyên trí tuệ, đệ nhất hữu tình, bậc tối thượng… (‘Satata’: ‘thường xuyên’, ‘liên tục’).

Ở đời có nhiều hạng: chết rồi chưa chôn, chôn rồi chưa chết. Sống thất niệm, không biết mình đang làm gì, sống vô ích, không đem lại lợi lạc cho bản thân và người khác, gọi là chết rồi chưa chôn. Kẻ chôn rồi chưa chết là người sống chánh niệm, sống hữu ít, tắt thở rồi vẫn còn là tấm gương cho người khác, và khi sống thì sống trọn vẹn từng bước đi, từng muỗng cơm, từng ánh mắt. Đây là lý do Đức Phật gọi vị tỳ kheo sống chánh niệm là satatavihārī – bậc hằng sống. Không phải chúa Jesus mới hằng sống.

Phật pháp không phải là thứ kiến thức biết được thì tốt mà là phải được biết, vì Phật pháp cho ta nhận thức về đời sống, chính sự nhận thức cho phép ta sống như thế nào. Nhiều người mang tiếng là Phật tử mà đến lúc cuối đời vẫn không hiểu được điều này, Phật pháp không phải nghe được thì tốt mà là phải nghe. Anh giàu cỡ nào đi nữa mà nhận thức về đời sống cạn quá thì đời sống của anh ắt có vấn đề.

CHÁNH ĐẲNG GIÁC

Ở đây Đức Phật xác nhận một điều thú vị đó là sự giác ngộ của Ngài và vị La-Hán đệ tử là giống nhau. Không vị giáo chủ nào đi làm chuyện lạ lùng như vậy, lúc nào vị giáo chủ cũng phải là hàng đầu, số một, vô địch. Nhưng ở đây Đức Phật xác nhận sự giác ngộ của Bậc Đạo sư và người đệ tử giống hệt nhau. Chỉ một điều khác biệt: Ngài là bậc tự ngộ, nhìn thấy con đường đó và dạy lại cho đệ tử, còn đệ tử là người cũng đi trên con đường đó nhưng bằng vào sự hướng dẫn của Ngài.

“Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng Giác. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, được giải thoát nhờ trí tuệ, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, giải thoát nhờ trí tuệ.”

Đoạn kinh trên, trong bản dịch tiếng Việt, dùng chữ ‘còn’ nên thấy sự nhận thức và sự giác ngộ của Bậc Đạo sư và người đệ tử có khác nhau Trong bản Pāḷi thì dùng chữ ‘cũng’ diễn đạt sự giác ngộ của thầy và trò y như nhau. Dịch lại như sau:

“Như Lai, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, Chánh Ðẳng Giác. Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, được giải thoát nhờ trí tuệ, cũng do yếm ly, ly tham, đoạn diệt sắc, được gọi là bậc Giải Thoát, không có chấp thủ, giải thoát nhờ trí tuệ.”

Có sự khác biệt nào giữa thầy và trò? Sự khác biệt đó chính là Đức Thế Tôn tự mình nhìn ra con đường đó. Chú giải nói rõ: Con đường giải thoát mà Ngài dạy lại cho đệ tử từng được chư Phật quá khứ biết đến và thuyết giảng, nhưng sau đó hoàn toàn không được biết đến, mỗi vị Phật ra đời nhắc lại cho chúng sanh được biết, khai quật lại cái đã bị vùi chôn. Như Lai là người làm sống dậy cái đã mất, khai mở cái đã bị che khuất.

“Maggānugāti maggaṃ anugacchantā. Pacchā samannāgatāti ahaṃ paṭhamaṃ gato, sāvakā pacchā samannāgatā”

‘Maggānugā’: ‘người theo lối mòn’.

‘Ahaṃ paṭhamaṃ gato’: Như Lai là người đầu tiên đi trên con đường đó.

‘sāvakā pacchā samannāgatā’: các đệ tử chỉ là người đi theo sau này.

Nội dung bài kinh này không phải nằm ở chỗ Ngài muốn nói về Ngài mà sự sâu sắc ở đây là Ngài xác định sự chứng đắc giữa Bậc Đạo sư và đệ tử giống hệt nhau và con đường giải thoát chỉ có một mà thôi. Toàn bộ mọi hiện hữu là khổ, nhận thức được như vậy chính là con đường thoát khổ. Người có đại trí, đại bi, đại hùng mới nguyện chứng Phật quả. Nếu thiếu đại bi, chỉ cần nghĩ đến bản chất thế giới thì không còn tha thiết gì nữa. Khi hiểu rõ thì thấy thế giới này chỉ là sự đau khổ, sự vô thường mà thôi. Bây giờ có thành Phật thì báo thân 32 tướng tốt cũng chỉ là vô thường, khổ, vô ngã. Ngay cả sự chứng đắc cũng nằm trong khổ, vô thường, vô ngã; trí tuệ của Đức Phật vẫn là tâm sinh diệt liên tục. Bắc Tông đẩy Ngài lên vị trí thần thánh siêu nhiên còn kinh điển Nguyên Thủy thì xác nhận Ngài là người cái gì cũng biết, đức lành nào cũng có, ai Ngài cũng thương, nhưng tâm của Ngài, thân của Ngài cũng luôn luôn vô thường. Mỗi vị Phật ra đời cũng chỉ độ được một số lượng chúng sinh như nắm cát trên sa mạc. Phải có lòng thương mới chịu cực, kéo dài sinh tử để thành Phật. Đại trí không cho phép người ta sinh tử nữa nhưng lòng đại bi không cho phép người ta đi một mình.

Tây có câu hay lắm: Lý trí dạy tôi biết tôi chỉ là nothing, tình cảm dạy tôi biết mình là everything. Tôi sống giữa hai thứ đó. Nghĩa là Bồ tát có lúc phải quán chiếu thấy rằng tất cả là không. Cái gì cũng buông hết, không đam mê đắm chìm trong vị ngọt và cũng không chùn bước trước thử thách nhưng có lúc Ngài thương từng ngọn cỏ, con ong, cái kiến như một bà mẹ thương con; phải có cả đại bi và đại trí mới nguyện thành Phật được.

VÔ NGÃ TƯỚNG (Anattalakkhanasutta)

Bài kinh này có hai tựa: Năm Vị (Pancavaggiya): Ngũ bộ Tỳ kheo; và cũng được gọi là Anattalakkhanasutta – Kinh Vô Ngã Tướng.

Đức Phật dạy 5 uẩn là vô ngã vì ta không thể điều khiển chúng như là mình muốn. Ta có thể tiết chế, thu thúc để mình không sống bất thiện, để mình có thể sống thiện, nhưng không thể cưỡng lại sự vô thường trong đời sống.

Vô ngã là bản chất lắp ráp của thế giới, gồm cả chúng sinh và thiên nhiên. Theo văn phạm Phật pháp thì không thứ gì trên đời này có thể chia ở số ít. Ta có thể biến nước thành màu này màu kia, thậm chí khiến nó bốc hơi, nhưng không thể thay đổi những thuộc tính của nước. Mình làm thiện, tránh ác để sanh ra được thông minh trí tuệ … đó chỉ là nhuộm nước chớ không thay đổi được thuộc tính của nước. Dù mang thân người có “đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu” nhưng bịnh đến là phải chịu, mỗi khoảnh khắc tâm sanh diệt tỷ lần cũng phải chịu, sống một lúc nào đó răng long tóc bạc, da mồi, gối mỏi cũng phải chịu, không thể thay đổi được. Nếu năm uẩn là của mình, nằm trong sự điều khiển của mình thì mình có thể mong cho nó như thế này mong cho nó đừng như thế kia, nhưng chuyện đó không thể thực hiện được. Thật ra chính bản chất lắp ráp lại là điều hay, bởi vì, trong cuộc đời đau khổ này, nếu hiểu rõ hạnh phúc là gì, đau khổ là gì thì việc đi tìm cái tôi trong thế giới này cũng giống như xác định quốc tịch ở một xứ sở chẳng ra gì.
__________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.