Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (10)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 1 - Tương Ưng Uẩn (10)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
[22] Chương I: Tương Ưng Uẩn (c)

B. Năm Mươi Kinh Ở Giữa
I. Phẩm Tham Luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra.

6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với tưởng giới... đối với hành giới... Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thức giới, do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.

11) Không có chỗ y chỉ ấy, thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát. Do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

II. Chủng Tử (Tạp 2, Ðại 2,8c) (S.iii,54)

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi...

3) -- Này các Tỷ-kheo, có năm loại chủng tử. Thế nào là năm? Chủng tử từ rễ, chủng tử từ thân, chủng tử từ đọt, chủng tử từ quả, và chủng tử từ chủng tử là thứ năm.

4) Và này các Tỷ-kheo, nếu năm loại chủng tử này không bị hư hoại, không bị hư thối, không bị gió và nhiệt phá hoại, có lõi cứng, khéo gieo, nhưng không có đất, và không có nước, thời này các Tỷ-kheo, năm loại chủng tử này có thể tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh được không?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

5) -- Và này các Tỷ-kheo, nếu năm loại chủng tử này không bị hư hoại, không bị hư thối, không bị gió và nhiệt phá hoại, có lõi cứng, khéo gieo, có đất và có nước, thời này các Tỷ-kheo, năm loại chủng tử này có thể tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh được không?

-- Thưa được, bạch Thế Tôn.

6) -- Này các Tỷ-kheo, ví như đất, bốn thức trú cần phải được xem như vậy. Ví như nước, này các Tỷ-kheo, hỷ tham cần phải được xem như vậy. Ví như năm loại chủng tử, này các Tỷ-kheo, thức cùng các món ăn cần phải được xem như vậy.

7) Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

8-10) Do tham luyến thọ... Do tham luyến tưởng... Do tham luyến các hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được tồn tại. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

11) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra.

12) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.

13-16) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với tưởng giới... đối với hành giới... đối với thức giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu.

17) Không có chỗ y chỉ như vậy, thức không tăng thịnh, không có hành động, được giải thoát; do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

III. Lời Cảm Hứng (Tạp 2, Ðại 2,16c) (S.iii,55)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi...

2) Ở đấy, Thế Tôn nói lên lời cảm hứng như sau:

Nếu trước, Ta không có,
Thời nay không có Ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không Ta.
Tỷ-kheo quyết tâm vậy,
Hạ phần kiết sử đoạn.

3) Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:

-- Như thế nào bạch Thế Tôn:

Nếu trước, Ta không có,
Thời nay không có Ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không Ta.
Tỷ-kheo quyết tâm vậy,
Hạ phần kiết sử đoạn?

4) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu không thấy rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không thấy rõ các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc, quán thọ... quán tưởng... quán các hành... quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.

5) Vị ấy không như thật biết rõ (pajànàti) sắc vô thường là sắc vô thường, không như thật biết rõ thọ vô thường là thọ vô thường, không như thật biết rõ tưởng vô thường là tưởng vô thường, không như thật biết rõ hành vô thường là hành vô thường, không như thật biết rõ thức vô thường là thức vô thường.

6) Không như thật biết rõ sắc khổ là sắc khổ, không như thật biết rõ thọ khổ... tưởng khổ... hành khổ... không như thật biết rõ thức khổ là thức khổ.

7) Không như thật biết rõ sắc vô ngã là sắc vô ngã, không như thật biết rõ thọ vô ngã... tưởng vô ngã... hành vô ngã... không như thật biết rõ thức vô ngã là thức vô ngã.

8) Không như thật biết rõ sắc hữu vi là sắc hữu vi, không như thật biết rõ thọ hữu vi... tưởng hữu vi... hành hữu vi... không như thật biết rõ thức hữu vi là thức hữu vi.

9) Không như thật biết rõ sắc sẽ biến diệt... thọ sẽ biến diệt... tưởng sẽ biết diệt... các hành sẽ biến diệt... không như thật biết rõ thức sẽ biến diệt.

10) Còn bậc Ða văn Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo thấy rõ các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, thấy rõ các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, không quán sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc, không quán thọ... không quán tưởng... không quán các hành... không quán thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức.

11) Vị ấy như thật thấy rõ sắc vô thường là vô thường, thọ vô thường... tưởng vô thường... hành vô thường... thức vô thường là thức vô thường.

12) Vị ấy như thật thấy rõ sắc khổ là sắc khổ, thọ khổ... tưởng khổ... hành khổ... như thật thấy rõ thức khổ là thức khổ.

13) Vị ấy như thật thấy rõ sắc vô ngã là sắc vô ngã, thọ vô ngã... tưởng vô ngã... các hành vô ngã... thức vô ngã là thức vô ngã.

14) Vị ấy như thật thấy rõ sắc hữu vi là sắc hữu vi, thọ hữu vi... tưởng hữu vi... các hành hữu vi... thức hữu vi là thức hữu vi.

15) Vị ấy như thật thấy rõ sắc sẽ biến diệt là sắc sẽ biến diệt, thọ sẽ biến diệt... tưởng sẽ biến diệt... các hành sẽ biến diệt... thức sẽ biến diệt là thức sẽ biến diệt.

16) Do sắc biến diệt, thọ biến diệt, tưởng biến diệt, hành biến diệt, thức biến diệt, vị Tỷ-kheo nói lên lời cảm hứng:

Nếu trước, ta không có,
Thời nay không có ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không ta.
Tỷ-kheo quyết tâm vậy,
Hạ phần kiết sử đoạn.

17) -- Dầu cho quyết tâm như vậy, bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo có thể cắt đứt hạ phần kiết sử. Nhưng bạch Thế Tôn, biết như thế nào, thấy như thế nào, các lậu hoặc được đoạn tận lập tức?

18) -- Ở đây, này Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu hoảng sợ tại chỗ không có gì đáng hoảng sợ; kẻ vô văn phàm phu hoảng sợ như sau:

Nếu trước, ta không có,
Thời nay không có ta,
Không tạo nhân sẽ có.
Tương lai sẽ không ta.

19) Và vị Ða văn Thánh đệ tử, này Tỷ-kheo, không hoảng sợ tại chỗ không có gì đáng hoảng sợ; vị Ða văn Thánh đệ tử không có hoảng sợ như sau:

Nếu trước, ta không có,
Thời nay không có ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không ta.

20) Này Tỷ-kheo, do tham luyến sắc, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

21-33) Do tham luyến thọ... do tham luyến tưởng... do tham luyến hành... do tham luyến thức, này Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh.

24) Này Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra.

25) Này Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không hiện hữu.

26) Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới...

27) Này Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với tưởng giới...

28) Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với hành giới...

29) Này Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thức giới, do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không hiện hữu.

30) Không có chỗ y chỉ như vậy thức không tăng trưởng, không có hành động, được giải thoát; do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3
Chương 1: Tương Ưng Uẩn

Phẩm Tham Luyến

Kinh Tham Luyến nội dung giống hệt vậy.

CHỦNG TỬ (Bijasutta)

Cái gọi là mầm sống của thực vật (chủng tử) gồm nhiều loại. Vị nào từng đi ra biển Cần Giờ, vị nào ở Mỹ từng đi Louisiana, vị nào ở VN từng đi ra Cà Mau sẽ thấy có loại cây rất là lạ, những cây mới được mọc lên từ rễ của cây cũ. Có cây mọc từ hột nhưng có những cây mọc lên từ trái (như dừa, cau), hoặc từ thân. Đức Phật dạy rằng, mầm sống của cây cối có nhiều hình thức, mầm sống của cái gọi là chúng sinh cũng phức tạp như vậy. Những mầm sống này không bị mất thì chúng sẽ tiếp tục sanh sôi nảy nở. Chỉ cần một chút dấu vết của phiền não, của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) thì các uẩn sẽ sinh sôi. Bốn uẩn đầu (sắc, thọ, tưởng, hành) giống như đất, tham (rút ra từ hành uẩn) giống như nước, nghiệp thức tức ba hành hay nghiệp hữu là hạt giống.

Ôn lại phần duyên khởi cho bà con nhớ. Khi một Tâm Thiện Dục giới xuất hiện sẽ tạo ra quả tái sinh cõi vui Dục Giới. Khi Tâm thiện Sắc Giới xuất hiện sẽ tạo ra quả tái sinh cõi Sắc giới. Khi tâm thiện Vô Sắc giới xuất hiện sẽ tạo ra quả tái sanh cõi Vô Sắc giới. Khi tâm bất thiện xuất hiện sẽ tạo ra quả tái sanh 4 cõi khổ. Các tâm thiện và bất thiện đó được gọi chung là nghiệp thức (kammaviññāṇa). Về chi pháp, nghiệp thức chính là nghiệp hữu trong Duyên khởi, cũng chính là ba Hành trong Duyên khởi.

Trong tiếng Pāḷi, tham ái có nhiều từ: ‘taṇhā’: khát ái; ‘rāga’: ái nhiễm; ‘sneha’: tham ái; nghĩa bình dân của ‘sneha’ là phù sa trong nước để nông dân trồng trọt. ‘Sneha’ (tham ái) trong vai trò là nước, tưới tẩm làm cho mình phát triển hơn nữa những phiền não, bất thiện. Cũng có trường hợp tham ái không phải là nước mà là chất phù sa, theo trong Tăng Chi Bộ.

Bài kinh Lời Cảm Hứng (Udanasutta) rất là hay, sẽ dành trọn một buổi để nói về kinh này, hay như nhạc, thú như phim, dù đọc qua sẽ thấy rất nản.

LỜI CẢM HỨNG (Udanasutta )

Hôm nay mình học bài kinh Lời Cảm Hứng.

Xin hỏi trong room, ngoài bản điện tử của bộ Tương Ưng trên internet, có ai trong nhà có bản in của bộ kinh này? Tạm thời chúng tôi đang ở Đức, không có sẵn bộ đó ở đây, nên phải dựa vào bản điện tử. Nhưng có một chuyện rõ ràng là bản trên mạng thiếu một chỗ rất là nặng. Trong bản chánh tạng Pāḷi có đoạn như thế này mà trong bản điện tử không có:

“55.Sāvatthinidānaṃ.” Duyên khởi của kinh bắt đầu ở Sāvatthini.

“Tatra kho bhagavā udānaṃ udānesi”. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn tự nói lên câu cảm hứng như sau:

“no cassaṃ, no ca me siyā, nābhavissa, na me bhavissatī’ti” Nếu trước đây ta chưa từng có thì bây giờ ta cũng không có, nếu bây giờ ta không có thì sau này ta cũng sẽ không có

“evaṃ adhimuccamāno bhikkhu chindeyya orambhāgiyāni saṃyojanānī’’ti”. Khuynh hướng suy tư như vậy đó có thể đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử (*)

“Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca” Khi được nghe như vậy một vị tỳ kheo bạch với Thế Tôn như sau:

“yathā kathaṃ pana, bhante”, Bạch Thế Tôn, con phải hiểu như thế nào câu nói của Thế Tôn.

Bản Tiếng Việt thiếu phần (*). Tại sao tôi phải nhắc chỗ này, vì không nhắc thì sẽ so le với bản chú giải. Trong chú giải có giải thích một chỗ mà trong bản tiếng Việt không có, điều đó có nghĩa là bản tiếng Việt bị thiếu. Trong chú giải có giải thích tại sao Thế Tôn có “cái ý muốn” nói lên câu kệ này. Chữ “cảm hứng” mà HT Minh Châu dùng ở đây có vẻ không trang nghiêm với một vị Chánh Đẳng Chánh Giác.

‘Udāna’ — Xem trong Tiểu Bộ Kinh sẽ thấy tập Cảm Hứng Ngữ gồm những câu kệ Thế Tôn tự nói một mình khi Ngài suy nghĩ chuyện gì đó hoặc nhìn thấy hình ảnh gì đó. Toàn bộ các câu kệ này đều có nội dung tu tập. Ngài biết rất rõ khi Ngài nói một mình không phải chỉ một mình Ngài biết mà còn có vô số chư thiên, Phạm thiên theo dõi Ngài nữa.

Khi Ngài đang suy nghĩ vấn đề gì đó, Ngài nói nói lên câu kệ. Ở đây cũng vậy, Ngài nhìn thấy căn cơ của vị tỳ kheo đang để ý lắng nghe Ngài.

‘Upanissayā’: ‘có duyên’, ‘túc duyên’, ‘căn cơ’.

Có ba loại căn cơ, duyên lành, làm nền tảng cho trí tuệ giác ngộ:

1. Dānasīlūpanissayā: duyên lành dựa vào hạnh bố thí.

2. Sīlūpanissayā: dựa vào giới hạnh.

3. Bhāvanūpanissaya: dựa vào việc tu tập Chỉ Quán.

Ngài xét thấy rằng muốn trở thành vị thánh trước hết phải có lòng nhàm chán sinh tử, không muốn tiếp tục tồn tại trong cuộc đời này nữa dù là trong bất cứ hình thức nào. Và phải có tu tập Ba-la-mật. Ba-la-mật bên kinh điển Nguyên Thủy có 10, Bắc Tông thì có 6 (bố thí, trì giới, thiền định, nhẫn nhục, trí tuệ). Kinh điển Nguyên Thủy thì thiền định nằm trong trí tuệ. Trí có 3: Văn, tư, tu nên thiền định nằm trong trí tuệ, Bắc Tông thì tách thiền và trí ra riêng biệt.

Có nhiều cách nói, có chỗ là Tín, Cần, Trí. Có những vị đức tin mạnh, có vị tinh tấn mạnh, có vị trí tuệ mạnh. Nhưng cũng có trường hợp căn tánh chúng sinh dựa vào những cái khác. Bồ tát Chánh Đẳng Giác, Độc Giác đều có ba hạnh:

Viriyadhika: Bồ tát hạnh tinh tấn
Saddhadhika: Bồ tát hạnh đức tin
Paññadhika: Bồ tát hạnh trí tuệ

Người nhiều đức tin (Tín) thì sẽ tập chú vào khía cạnh Vô thường trước khi thấm thía hai tướng kia. Người nhiều Định sẽ tập chú trước tiên vào Khổ tướng. Người nhiều trí sẽ tập chú trước tiên vào Vô ngã tướng, dù trước sau cũng sẽ thấy đủ ba tướng. Ví dụ, có người chán đời thấy phù du, có đó mất đó, có người thấy cảnh đau khổ, đói lạnh, chiến tranh… họ ngán. Có người thì chú ý đến khía cạnh giả hợp, cái gì cũng chỉ là đồ ráp. 

Trong các thứ vật chất, tôi sợ cái gì sét, nhìn sét là tôi khó chịu. Thỉnh thoảng tôi đi tiệm đồ cũ, trong người tôi lúc nào cũng có cục nam châm, cái gì tôi cần mua bằng inox là tôi lấy nam châm thử. Nếu nó hút thì không phải là stainless thứ thiệt. Một lần tôi đi quên đem theo nam châm, tôi mang về tôi thử thấy hít, tôi chán. Khi hít như vậy là lượng sắt rất cao, nay mai nó sẽ sét. Mỗi người thường bị một cái gì đó làm cho họ có ấn tượng, làm cho họ chán. Có người chán vì sự mong manh vô thường, có người chán vì sợ khổ, có người chán vì thấy khía cạnh giả hợp. Khi mình thấy khía cạnh Khổ thì lập tức thấy luôn hai khía cạnh còn lại, khi mình thấy khía cạnh Vô thường thì lập tức mình thấy hai khía cạnh còn lại. Tùy theo cơ tánh mà mình tập chú vào khía cạnh nào trước.

Trong bài kinh này căn duyên chúng sinh chia làm ba. Có người Ba-la-mật của họ được bắt đầu từ Thí, có người từ Giới, có người từ Thiền định. Ngài xét thấy căn duyên của vị tỳ kheo trước mặt yếu, vị này chỉ dựa vào Giới và Thí nên Ngài mới nói câu kệ đó.

Người có thiền định sẽ lấy Định làm nền tảng tu Quán, người không có Định thì chỉ có thể suy tư.

Cũng trong Tương Ưng, Đức Phật dạy rằng: Giống như các loài thú rừng khi nghe tiếng gầm của sư tử chúng sợ hãi như thế nào, một vị Chánh Đẳng Giác ra đời, Ngài nói ra sự thật của đời sống, chúng sinh nghe được sẽ kinh hãi, vì họ không ngờ. Có rất nhiều người chung quanh mình do hấp thụ nền giáo dục nào đó mà họ rất thờ ơ với đời sống tâm linh. Họ nghĩ cứ ăn học, có bằng cấp, lập gia đình, có con cái rồi già chết nằm xuống như chiếc lá không có gì phải lo. Người có học Phật pháp thì nghĩ mọi sự không phải đơn giản như vậy, không phải ngẫu nhiên mà mình có mặt trên đời này, và không phải khi chết rồi thì mọi sự sẽ hết. Biết được điều đó thì mình sẽ sợ hãi. Người không biết đạo, nếu không gặp chuyện buồn thì họ chỉ biết tận hưởng với những gì họ có, còn người biết đạo thì biết tất cả những gì ngọt ngào sung sướng hạnh phúc mình đang có sẽ lìa bỏ mình trong đầu hôm sớm mai. 

Câu kệ ở đây:

“Nếu trước, Ta không có,
Thời nay không có Ta,
Không tạo nhân sẽ có,
Tương lai sẽ không Ta”

Chú giải giải thích, nếu đời trước không có tạo nghiệp thiện ác, thì đời này không có mặt. Nếu đời này không tạo nhân thiện ác thì đời sau sẽ không có mặt. Nhận thức này dẫn đến hai cảm xúc khác nhau: người chấp ngã khi được nghe nói về bản chất Vô ngã thì thấy tiếc nuối, sợ hãi; người hiểu đạo nghe vậy lại thấy nhẹ nhàng.

Quí vị đọc kỹ xuống dưới sẽ thấy Ngài dạy, nếu một người không có trí tuệ thường xuyên quán chiếu thấy năm uẩn là Vô thường, Khổ, Vô ngã; cái gọi là tôi, của tôi chỉ là những ý niệm giả danh, lắp ráp, mong manh, lúc vầy lúc khác thì khi đối diện một thực tế tan nát phũ phàng chẳng hạn như nhan sắc, danh lợi, tiền tài, uy tín quyền lực tiêu tan mất mát thì chịu không nổi, cứ thấy cái tôi của mình bị đe dọa thì sẽ đau khổ. Còn một người căn bản thấy cái tôi đó vốn không có, thì làm gì có chuyện bị đe dọa. Một người thấy mất thì sợ, một người thấy mất thì xem đó là chuyện bình thường, bởi vốn dĩ người đó thường xuyên sống trong tâm niệm rằng tất cả những gì thuộc về vật chất thì luôn luôn vô thường biến đổi, cái gì vô thường thì cái đó gọi là khổ, cái gì là khổ thì cái đó không đáng được gọi là tôi, là của tôi. Đó là nói về sắc uẩn. Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn cũng vậy.

Bài kinh sau rất đáng được học thuộc lòng. Bài kinh sau giải thích năm uẩn theo cách không giống như ta thường nghe. Đó là lý do tôi không giảng nhiều ở bài kinh này. Cái thú vị độc đáo của bài kinh này là Đức Phật đưa ra một suy tư: Với một người không tu thì nghe chuyện “không có tôi, không có gì là tôi, là của tôi” thì họ đau khổ, còn với người có tu thì họ thấy vốn không có gì là tôi là của tôi thì làm gì phải đau khổ khi đối diện với thử thách, tan nát đổ vỡ.

Đoạn 18, 19 rất đặc biệt, ở đây do không có trí tuệ quán chiếu năm uẩn nên kẻ phàm phu hoảng sợ đối với chuyện không có gì đáng phải sợ: “kẻ vô văn phàm phu hoảng sợ tại chỗ không có gì đáng hoảng sợ”. Họ sợ những chuyện chẳng có gì đáng sợ, họ sợ chuyện như thế này, Ngài đọc bài kệ:

“Nếu trước, ta không có
Thời nay không có ta,
Không tạo nhân sẽ có.
Tương lai sẽ không ta.”

Kẻ phàm phu cứ sợ rằng họ không có mặt trong cuộc đời này. Có thể trước khi nghe giảng kinh này quí vị không có ngờ rằng mình sợ điều đó, nhưng thật sự tôi đã từng trải qua cảm giác như vậy. Tôi vẫn còn thích nhiều thứ lắm. Buổi sáng sớm ngồi bên bờ hồ mênh mông, nhìn lớp sương mờ bảng lảng trên mặt nước, đâu đó bên sườn núi ven đồi có tiếng chim hót. Hoặc buổi chiều vàng bình yên ngồi trên thảm cỏ, nghe tiếng chuông bò xa xa lắng nghe thời gian chầm chậm trôi, phảng phất đâu đó một mùi quen thuộc của quê hương VN, mùi của rơm rạ cháy, mùi ngai ngái nồng nồng của chuồng bò. Những giây phút đó đẹp biết chừng nào. Vậy mà bỗng nhiên, chấm dứt phiền não, không còn thích gì hết, sống hết tuổi thọ rồi tắt thở, không còn tái sanh nữa, nghĩ vậy cũng tiếc chứ. 

Nếu được chọn lựa giữa Niết bàn sinh tử không còn sự có mặt nữa và sự tiếp tục có mặt đời đời thiên thu trên trời đất này trong bối cảnh yên bình như vậy không bị sa đọa, có lẽ tôi không chọn viên tịch Niết bàn; tôi không đủ nhàm chán, tôi chưa đủ trí tuệ để lìa bỏ niềm đam mê trong sinh tử. Tôi sợ vì tôi biết chắc chắn rằng cái giây phút mình có thể ngồi yên với sự nhận thức đầy đủ của một con người về thế giới yên bình chung quanh, trong một đất nước dễ thương như vậy không có nhiều, không được một phần tỷ trong kiếp luân hồi. 

Phải can đảm khách quan nhìn nhận rằng chuyện nhàm chán sinh tử không phải là dễ. Vì vậy Đức Phật xác nhận rằng, với người còn ưa thích tham đắm trong năm uẩn, không quán chiếu Tam tướng trong năm uẩn thì họ sợ mất, sợ vắng mặt trên cuộc đời này. Chính vì sợ như vậy nên khi đối diện với bệnh tật, tai nạn, đổ vỡ, họ kinh hoàng sợ hãi cái nỗi sợ mà Đức Phật gọi là sợ hãi không đáng. Riêng vị thánh đệ tử quán chiếu Tam tướng trong năm uẩn, vị đó không sợ hãi ‘tôi còn’ hay ‘tôi mất’.

Từ đoạn 21 trở về sau, ngài có dùng chữ ‘giới’. Chữ này là ‘dhātu’= dhamma: pháp.

Người nhàm chán năm dục (một phần của sắc uẩn) bằng sự chứng ngộ thiền Sắc giới thì sẽ sanh về cõi Sắc giới. Người đam mê trong năm dục (tức sắc uẩn) thì sinh về các cõi Dục giới. Người nhàm chán sắc uẩn nhưng còn đam mê trong bốn danh uẩn thì sinh về cõi Vô sắc. Bậc Tam quả dứt hẳn dục ái nên vĩnh viễn không trở lui cõi Dục, nên gọi là bậc Bất lai. Tư-đà-hàm chỉ còn trở lại cõi Dục một lần nên gọi là Nhất lai. Người nhàm chán cả năm uẩn bằng tứ đạo thì không còn tái sinh nữa. Xem từ đoạn 21-29 sẽ hiểu ngay.

Khi chán sinh tử phải có tu tập thì mới chấm dứt sinh tử. Chán sắc uẩn thì phải tu tập thiền định để về cõi Vô sắc, chớ còn chán mà ngồi yên thì không được kết quả gì.

Chính vì không quán chiếu Tam tướng trong năm uẩn nên phàm phu luôn sợ bị mất. Mất cái gì? Mất cái gọi là ta, bản thân ta, và cái gì của ta, thuộc về ta, liên quan đến ta. Chính vì sợ mất nên mới làm đủ cách để giữ lại. Một người hiểu đạo có tu hành, thấy bệnh thì uống thuốc, có vết thương thì băng bó, hành động của họ chỉ hoàn toàn mang tính kỹ thuật, như xe phải đổ xăng, hư phải sửa; còn người không biết đạo thì trong chuyện ăn mặc, xe cộ, nhà cửa không thuần là mang tính kỹ thuật mà còn là sự hưởng thụ. Người tu thì chỉ cần ăn no mặc ấm, người không tu thì ăn ngon mặc đẹp, ăn sang mặc đồ hiệu. Cứ theo đuổi như vậy hoài thì không bao giờ thỏa mãn vì trên đời biết bao nhiêu thứ ngon, còn hàng hiệu thì vô tận. 

Hàng hiệu thì luôn đổi mới, đó chỉ là sản phẩm bình thường nhưng các hãng sản xuất mượn hình ảnh của những nhân vật nổi tiếng để giới thiệu, quảng cáo, đánh bóng tại những nơi nổi tiếng và tạo ra thương hiệu. Với người tu tập thì nhu cầu ăn mặc ở, đi lại và thuốc men chỉ mang tính kỹ thuật, để duy trì mạng sống và tu tập, còn người không tu tập thì luôn gắn liền ý niệm hưởng thụ trong các nhu cầu. Ngày nào vẫn còn ôm ấp bám víu vào năm uẩn này thì các cơ hội tái sanh vẫn còn nguyên vẹn; khả năng sanh làm thú, làm trùn, làm dế… vẫn còn nguyên. Vẫn còn là phàm phu thì khả năng ăn thịt sống, ăn phân người, ăn những đồ dơ bẩn, phải sống ở những nơi tăm tối v.v… vẫn còn nguyên cho dù mình trí thức đến mấy, tiếng tăm đến mấy, ở những xứ sở văn minh đến mấy. Người có học đạo sợ cái mà người không học đạo không thấy sợ, và ngược lại.

Đoạn 24: “Này Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh của thức”, sự việc như vậy không xảy ra”. Câu này dịch quá sát bản Pāḷi. Diễn dịch theo ngôn ngữ của mình là: “Năm uẩn luôn gắn liền nhau, nên nếu bỏ bốn uẩn đầu thì không thể nào có sự có mặt của thức uẩn”. Muốn nói đến thức uẩn thì phải nói bốn uẩn trước, muốn nói sắc uẩn, (hay thọ uẩn, hay tưởng uẩn, hay hành uẩn) thì phải nói đến các uẩn còn lại. Sự vắng mặt của sắc uẩn trên cõi Vô sắc chỉ là tạm thời. Sự vắng mặt một sắc pháp nào đó trên cõi Sắc giới cũng chỉ là sự tạm thời, và sự có mặt của năm uẩn luôn luôn gắn liền nhau mặc dù thỉnh thoảng có sự gián đoạn – đó chỉ là tạm thời. 

Hễ còn thích thú trong một uẩn nào đó thì còn chủng tử ưa thích trong các uẩn còn lại. Ví dụ như mình không thích sắc, thinh, khí, vị, xúc nữa, chỉ thích ngồi thiền, dù cho mình đắc thiền sanh về cõi Phạm thiên cao nhất đi nữa thì một lúc nào đó cũng sẽ quay xuống, vì chủng tử ưa thích trong sắc uẩn vẫn tiềm tàng trong niềm đam mê danh uẩn; nó gắn liền với nhau như vậy. Cho nên, còn thích một cái gì đó, cái thích đó là suối nguồn để nuôi dưỡng cho sự đam mê khác. Một chút xíu tham ái, cũng chính là cơ hội để chúng ta tiếp tục có mặt trong vòng quẩn quanh Tam giới.

“30) Không có chỗ y chỉ như vậy thức không tăng trưởng, không có hành động, được giải thoát; do giải thoát nên được kiên trú; do kiên trú nên được tri túc; do tri túc nên không có ưu não; do không có ưu não nên tự mình cảm thấy tịch tịnh hoàn toàn. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. Một người nhàm chán năm uẩn một cách rốt ráo và bằng thánh trí thì mới làm được như đoạn kinh này. Một vị Tu-đà-hoàn thì vĩnh viễn là Tu-đà-hoàn, một vị A-na-hàm thì vĩnh viễn là A-na-hàm, sự an lạc của bậc thánh thì không thay đổi.

Trong sớ giải kinh này có kể câu chuyện ngài Milakathera. Đây là câu chuyện đúc kết bài kinh này. Ngài Milakathera xuất thân là một người thợ săn thường xuyên dùng vũ khí, đặt bẫy bắt thú làm kế sinh nhai. Bữa nọ, ngài vô rừng để bắt thú cảm thấy khát nước quá thì nhìn thấy một thảo am của vị tỳ kheo ẩn lâm.

‘Araññavāsi’: ẩn lâm, sống trong rừng.

‘Arañña’ (Pāḷi); ‘aranya’ (Skt): rừng. Phiên âm là Lan nhã. Già Lam phiên âm từ chữ ‘arama’: khu vườn.

Ngày xưa Phật Giáo Nguyên Thủy không mặn mà chuyện xây cất. Chùa bây giờ thì tăng ni có thể sống mấy chục năm, trụ trì thì như chủ cơ sở. Trụ trì ngày xưa chỉ là người được chư tăng giao phó trông coi một nơi nào đó khi nào chán thì tìm người bàn giao rồi đi, không có quyền lợi gì. Tăng ni ngày xưa thì ban ngày đi bát, ban đêm về ngủ, chùa chỉ là chỗ ngủ qua đêm. Vì vậy chữ ‘chùa’ (vihara), không phổ biến bằng chữ ‘arama’.

Thợ săn Milakathera khi nhìn thấy thảo am liền tới xin nước uống, nhưng khi giở nắp lu ra thì không còn một giọt nước, anh ta cảm thấy bực bội nổi giận:

“bhikkhu, bhikkhu tumhe gahapatikehi dinnaṃ bhuñjitvā bhuñjitvā supatha”, Cái ông này được cư sĩ cúng dường ăn cho mập thây rồi đi ngủ, “pānīyaghaṭe añjalimattampi udakaṃ na ṭhapetha”, lu nước cạn đến mức thấm ngón tay cũng không có.

‘Pānīyaghaṭa’: ‘lu nước’, ‘vại nước’

Vị ẩn sĩ đi ra và nói: Lu nước người ta mới xách đầy đó. Thợ săn Milakathera nghe vậy mở nắp lu lần nữa và thấy nước đầy ắp. Anh ta đang khát và nghĩ mà thấy sợ: Trời ơi. Như vậy nghiệp của mình nặng đến mức lu nước rõ ràng không có miếng nước nào hết. Ngay khi mình còn sống mà nghiệp nhãn tiền như vậy thì mai này ra sao: “Kiṃ nu kho anāgate attabhāve bhavissatī’’ti?” (Không biết rồi tương lai của ta sẽ đi về đâu khi ác nghiệp của ta nặng như vậy?). Thế rồi, thợ săn Milakathera xin được xuất gia. Vị tỳ kheo ẩn sĩ truyền giới và dạy cho tỳ kheo Milakathera năm đề mục thể trược (tóc, lông, móng, răng, da). 

Mỗi lần vị tỳ kheo Milakathera ngồi thiền với đề mục bất tịnh đó, bao nhiêu hình ảnh thú rừng bị giết cứ hiện lên trong đầu, con này bị lòi ruột, con kia kêu la, con nọ đổ máu. Vị tỳ kheo Milakathera không thể thiền được, không thể lắng tâm được khi hình ảnh cũ cứ hiện về rõ nét. Thấy không xong, tỳ kheo Milakathera vào xin vị ẩn sĩ sư phụ cho hoàn tục. Vị ẩn sĩ nói: Không có duyên xuất gia thì thôi vậy, nhưng trước khi đi thì chặt giùm tôi đống củi và đốt giùm đống lửa. Trong kinh nói rằng vị tỳ kheo Milakathera đốt hoài mà lửa không cháy. Vị sư phụ ẩn sĩ dùng thần thông mở đất nứt ra một đoạn cho tỳ kheo Milakathera nhìn thấy ngục A Tỳ đang cháy. Vị sư phụ ẩn sĩ lấy một đốm lửa trong địa ngục búng vào đống củi thì cháy sạch. Vị tỳ kheo Milakathera thấy sợ hãi trước cảnh tượng đó, nghĩ rằng nếu mình dễ duôi thì không biết cuộc đời sẽ đi về đâu, vì vậy quyết tâm nỗ lực tu tập và đắc quả vị A-na-hàm.

Có một câu chuyện cũng tương tự như vậy. Một vị sư trẻ xuất gia xong thì tâm tư vọng động, ngồi thiền không được, sống trong rừng mà lòng cứ tơ tưởng chuyện đời, cuối cùng xin sư phụ cho hoàn tục. Sư phụ đưa cho vị này lá y cũ bảo đem xuống suối giặt rồi đi. Vị sư trẻ này đem lá y xuống suối giặt, nhưng không cách nào nhúng lá y xuống nước được, cứ phập phồng bên trên không thấm nước. Vị sư trẻ lấy làm lạ bởi không phải trong đời chưa từng giặt vải. Vị này về hỏi sư phụ lý do vì sao lá y không thấm và chìm xuống nước. Sư phụ nói: Hồi trưa chúng ta đi bát về ăn cơm, con rửa bát chỗ nào thì chạy ra đó nhìn xem còn miếng cơm nào không, lấy một hột đem xuống suối dằn lên lá y thì sẽ giặt được. Vị tỳ kheo trẻ lấy một hột cơm khô đem ra suối và liệng lên lá y thì lá y chìm lỉm xuống đáy suối. Giặt phơi y xong, vị tỳ kheo trẻ hỏi sao có chuyện kỳ lạ vậy. 

Quí vị có hiểu tại sao lá y đó chìm không? Sư phụ nói, hột cơm của tín thí nặng dữ lắm. Hột cơm của người ta là do người ta đổ mồ hôi sôi nước mắt, nhiều khi không dám cho cha cho mẹ ăn mà đem cho mình, nên nặng lắm. Mình với người ta là người dưng nước lã, họ nghĩ gì đem cho mình ăn với sự kính quí, mình mà tào lao là nuốt không trôi. Sư phụ nói với đệ tử: Một hột cơm mà nó làm chìm lá y. Hồi đó đến giờ con ăn bao nhiêu hột cơm rồi mà con đòi hoàn tục, thì mai mốt con hoàn tục thì nó kéo con tới đâu. 

Hôm nay quí vị nghe tôi kể chuyện này thì quí vị không sợ, nếu chuyện này xảy ra trước mặt mà quí vị là người trong cuộc thì chắc quí vị kinh hồn. Có những chuyện phải bản thân mình trải qua thì mình mới kinh cảm, chớ còn nghe người ta kể cả trăm chuyện về Đức Phật mình cũng không thấm. Câu chuyện này thì cũng không mắc mớ gì nội dung bài kinh ngoài chuyện nhìn đời sống hiện tại mà nghĩ đến tương lai. Có người nghĩ về quá khứ, về tương lai để sợ hãi tiếc nuối, để tích lũy tài sản; có người nghĩ để mà buông bỏ mà tinh tấn tu tập hơn. 

Hãy luôn luôn nhớ một điều: không có nhân thì không có quả, không gieo nhân sinh tử thì không có quả sinh tử. Sự có mặt của mình chỉ là sự có mặt của nhân quả, và chính vì vậy không có gì phải sợ khi ta bị mất mát cái này cái kia. Đó chính là nội dung của bài kinh Lời Cảm Hứng.
________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.