Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 10 - Tương Ưng Tỷ Kheo (1)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 10 - Tương Ưng Tỷ Kheo (1)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 2
[21] Chương X: Tương Ưng Tỷ Kheo

I. Kolita (Tạp, Ðại 2, 132a) (S.ii,273)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.

2) Tại đấy, Tôn giả Mahà Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) gọi các Tỷ-kheo:

-- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.

-- Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahà Moggallàna.

3) Tôn giả Mahà Moggallàna nói:

-- Ở đây, này Hiền giả, trong khi tôi độc trú tĩnh cư, tâm tưởng tư duy như sau được khởi lên: "Thánh im lặng được gọi là Thánh im lặng. Thế nào là Thánh im lặng?"

4) Rồi này các Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: "Ở đây, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm". Như vậy gọi là Thánh im lặng.

5) Rồi này các Hiền giả, tôi diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Hiền giả, khi tôi an trú với sự an trú như vậy, các tưởng câu hữu với tầm, các tác ý hiện khởi và hiện hành.

6) Rồi này các Hiền giả, Thế Tôn bằng thần thông đến với tôi và nói: "Moggallàna, Moggallàna, chớ có phóng dật. Này Bà-la-môn, đối với Thánh im lặng, hãy an trú tâm vào Thánh im lặng, hãy chú nhất tâm vào Thánh im lặng, hãy chú định tâm vào Thánh im lặng".

7) Rồi này các Hiền giả, sau một thời gian, tôi diệt tầm và tứ, chứng và trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Này các Hiền giả, nếu ai nói một cách chơn chánh, sẽ nói như sau: "Ðược bậc Ðạo Sư hỗ trợ, vị đệ tử chứng đạt đại thắng trí". Người ấy nói một cách chơn chánh, sẽ nói về tôi: "Ðược bậc Ðạo Sư hỗ trợ, vị đệ tử chứng đạt đại thắng trí".

II. Upatissa... (S.ii,274)

1) Nhơn duyên ở Sàvatthi.

2) Tại đấy, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:

-- Này các Hiền giả Tỷ-kheo.

-- Thưa vâng, Hiền giả.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta.

3) Tôn giả Sàriputta nói:

-- Ở đây, này các Hiền giả, trong khi tôi độc trú tĩnh cư, tâm tưởng tư duy như sau được khởi lên: "Có cái gì trong đời, khi bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu, não?".

Rồi này các Hiền giả, tôi suy nghĩ: "Không có cái gì trong đời, khi bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu, não".

4) Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Sàriputta:

-- Bậc Ðạo Sư, này Hiền giả Sàriputta, khi bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên nơi Hiền giả sầu, bi, khổ, ưu, não?

5) -- Bậc Ðạo Sư, này Hiền giả Ananda, khi bị biến hoại, trạng thái đổi khác, không có thể khởi lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu, não. Nhưng ta có thể suy nghĩ: "Mong rằng bậc Ðại Thế Lực, bậc Ðạo Sư có đại thần thông, có đại uy lực chớ có biến diệt! Nếu bậc Thế Tôn ấy an trú lâu dài, thời như vậy thật là hạnh phúc cho quần sanh, thật là an lạc cho quần sanh, vì lòng từ mẫn cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người".

6) -- Như vậy đối với Tôn giả Sàriputta, ngã kiến, ngã sở kiến, ngã mạn, tùy miên được khéo đoạn trừ đã lâu ngày.

7) Do vậy, đối với Tôn giả Sàriputta, dầu cho bậc Ðạo Sư có biến hoại, trạng huống có đổi khác, cũng không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.

III. Cái Ghè (Tạp 18-14 Tịch Diệt, Ðại 2, 132c) (S.ii,275)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

2) Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahà Moggallàna cùng ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm) tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc, chung một tịnh xá.

3) Rồi Tôn giả Sàriputta, từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Moggallàna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahà Moggallàna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu bèn ngồi xuống một bên.

4) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Mahà Moggallàna:

-- Này Hiền giả Moggallàna, các căn của Hiền giả thật là tịch tịnh; sắc mặt thật là thanh tịnh, trong sáng. Có phải hôm nay Tôn giả Mahà Moggallàna an trú với sự an trú tịnh lạc?

-- Thưa Hiền giả, hôm nay tôi an trú với sự an trú thô thiển. Tôi có được một cuộc pháp thoại.

5) -- Với ai, Tôn giả Mahà Moggallàna có được một cuộc đàm luận về Chánh pháp?

-- Thưa Hiền giả, tôi có một cuộc pháp thoại với Thế Tôn.

6) -- Ở xa, thưa Hiền giả, là Thế Tôn. Hiện nay Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. Có phải Tôn giả Mahà Moggallàna đi đến Thế Tôn bằng thần thông hay Thế Tôn đi đến Tôn giả Mahà Moggallàna bằng thần thông?

7) -- Thưa Hiền giả, tôi không đi đến Thế Tôn bằng thần thông. Và Thế Tôn cũng không đi đến tôi bằng thần thông. Tôi như thế nào thời Thế Tôn được thiên nhãn thanh tịnh, cả thiên nhĩ nữa như vậy! Thế Tôn như thế nào thời tôi được thiên nhãn thanh tịnh, cả thiên nhĩ nữa như vậy.

8) -- Như thế nào là cuộc pháp thoại giữa Tôn giả Mahà Moggallàna với Thế Tôn?

9) -- Ở đây, thưa Hiền giả, tôi bạch với Thế Tôn:

"-- Bạch Thế Tôn ở đây tinh cần, tinh tấn, được gọi là tinh cần, tinh tấn. Như thế nào, bạch Thế Tôn, là tinh cần, tinh tấn?".

10) Khi được nói vậy, thưa Hiền giả, Thế Tôn nói với tôi:

"-- Ở đây, này Moggallàna, Tỷ-kheo sống tinh cần, tinh tấn: ‘Dầu cho da, dây gân và xương có khô héo, dầu thịt và máu có héo tàn trên thân tôi, cái gì có thể lấy sức lực của người, tinh tấn của người, nỗ lực của người có thể đạt được; nếu chưa đạt được, thời tinh tấn sẽ không bao giờ dừng nghỉ’. Như vậy, này Moggallàna, là sự tinh cần, tinh tấn".

11) Như vậy, này Hiền giả, là cuộc pháp thoại giữa Thế Tôn và tôi.

12) Ví như, này Hiền giả, một đống hòn sạn nhỏ đem đặt dài theo Hy-mã-lạp sơn, vua các loài núi. Cũng vậy, là chúng tôi được đem đặt dài theo Tôn giả Mahà Moggallàna. Mong rằng Tôn giả Mahà Moggallàna, bậc đại thần thông, đại uy lực, nếu muốn hãy sống cho đến một kiếp.

13) Ví như, này Hiền giả, một nắm muối nhỏ được đem đặt dài theo một ghè muối lớn. Cũng vậy, là chúng tôi được đem đặt dài theo Tôn giả Sàriputta.

14) Tôn giả Sàriputta được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện xưng tán, tán thán, tán dương:

Như vị Xá-lợi-phất,
Về trí tuệ, giới luật,
Và cả về tịch tịnh,
Ông là bậc đệ nhất.
Tỷ-kheo đạt bỉ ngạn,
Cũng là bậc tối thượng.

15) Như vậy, hai bậc Long Tượng ấy (Nàgà) cùng nhau hoan hỷ, tán thán trong câu chuyện khéo nói, khéo thuyết.

IV. Tân Tỷ Kheo (Ðại 2, 277c, 376a) (S.ii,277)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) Lúc bấy giờ, một tân Tỷ-kheo sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi vào tịnh xá, rảnh rỗi, yên lặng, phân vân (không biết làm gì), không phụ việc với các Tỷ-kheo trong thời gian may y.

3) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

4) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Ở đây, bạch Thế Tôn, có một tân Tỷ-kheo sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi vào tịnh xá, rảnh rỗi, im lặng, phân vân (không biết làm gì), không phụ việc với các Tỷ-kheo trong thời gian may y.

5) Rồi Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo:

-- Hãy đến, này Tỷ-kheo, nhân danh Ta, hãy gọi Tỷ-kheo ấy và nói: "Này Hiền giả, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả".

6) -- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tỷ-kheo kia; sau khi đến nói với Tỷ-kheo ấy:

-- Thưa Hiền giả, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả.

7) -- Thưa vâng, này Hiền giả.

Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tỷ-kheo kia, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

8) Thế Tôn nói với Tỷ-kheo đang ngồi xuống một bên:

-- Có thật chăng, này Tỷ-kheo, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, sau khi vào tịnh xá, Ông rảnh rỗi, im lặng, phân vân (không biết làm gì), không phụ việc với các Tỷ-kheo trong thời gian may y?

-- Bạch Thế Tôn, con làm việc của con.

9) Rồi Thế Tôn, với tâm của mình biết tâm Tỷ-kheo ấy, liền gọi các Tỷ-kheo:

-- Này các Tỷ-kheo, các Ông chớ có bực phiền với Tỷ-kheo này. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này chứng được không có khó khăn, chứng được không có mệt nhọc, chứng được không phí sức bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú. Vị ấy còn tự mình ngay trong hiện tại, chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này, con các lương gia chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

10) Thế Tôn thuyết như vậy. Bậc Thiện Thệ sau khi nói xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Kẻ sống buông thả này,
Kẻ ít nghị lực này,
Không thể đạt Niết-bàn,
Giải thoát mọi khổ đau.

Vị Tỷ-kheo trẻ này,
Là một người tối thượng,
Chiến thắng ma quân xong,
Thọ trì thân tối hậu.

V. Thiện Sanh (Tạp, Ðại 2, 276a, 374a) (S.ii,278)

1) Trú ở Sàvatthi.

2) Rồi Tôn giả Sujàta đi đến Thế Tôn.

3) Thế Tôn thấy Tôn giả Sujàta từ đằng xa đi đến; thấy vậy, liền gọi các Tỷ-kheo:

4) -- Cả hai phương diện, này các Tỷ-kheo, thiện nam tử này thật sự chói sáng. Vị ấy đẹp trai, ưa nhìn, khả ái, đầy đủ với nhan sắc tối thượng. Vị ấy còn ngay trong hiện tại tự mình chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này, con các lương gia chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

5) Thế Tôn nói như vậy xong... Bậc Ðạo Sư, lại nói thêm:

Tỷ-kheo này sáng chói,
Với tâm tư chánh trực,
Ly kiết sử, ly ách,
Không chấp, không sanh lại,
Chiến thắng ma quân xong,
Thọ trì thân tối hậu.

VI. Bhaddi (Tạp 38.2, Ố Sắc, Ðại 2, 276a, 374a) (S.ii,279)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) Rồi Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya đi đến Thế Tôn.

3) Thế Tôn thấy Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya từ xa đi đến; sau khi thấy, liền gọi các Tỷ-kheo:

4) -- Các Ông có thấy không, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kia đang đi đến, xấu xí, khó nhìn, còm lưng, bị các Tỷ-kheo khinh miệt?

-- Thưa có, bạch Thế Tôn.

5) -- Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, có đại thần thông, có đại uy lực. Thật không dễ gì đạt được chứng đắc mà trước kia vị Tỷ-kheo ấy chưa chứng đắc. Và cả đến mục đích mà con một lương gia xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tức vị ấy còn tự mình, ngay trong hiện tại, chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì mục đích này, con các lương gia xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

6) Thế Tôn thuyết như vậy, Bậc Thiện Thệ nói xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Thiên nga, cò, chim, công,
Voi và nai có chấm,
Tất cả sợ sư tử,
Dầu thân không đồng đều.

Cũng vậy, giữa loài Người,
Nếu kẻ có trí tuệ,
Ở đấy vị ấy lớn,
Không như thân kẻ ngu.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 2
Chương 10: Tương Ưng Tỳ Kheo

1. KOLITA

Kolita là thế danh (tên đời) của ngài Mục Kiền Liên, thỉnh thoảng vẫn được dùng bên cạnh ngoại hiệu Moggalāna. Upatissā là thế danh của ngài Sāriputta.

Bài này người có biết một chút về A-tỳ-đàm thì nghe rất là ok. Người chưa học thì nghe hơi mệt, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ cố gắng nói nhẹ nhẹ cho bà con nghe. Trong kinh có nói một điều đặc biệt, Đức Phật dạy rằng, đệ tử của ngài khi gặp nhau chỉ có hai việc cần làm đó là trao đổi giáo lý hoặc cùng giữ im lặng theo cách của bậc thánh. Có nghĩa là tu tập Samatha hay Vipassanā bên cạnh nhau. Tôi biết những người VN của mình nghe vậy thấy rất là khó chịu, họ thấy như vậy thì còn gì tình cảm nữa. Nếu quí vị chưa từng sống qua những nơi chốn như vậy thì quí vị không tin hoặc không hiểu nổi đâu.

Thực ra ta sẽ càng thương quí nhau hơn nữa khi ta cùng tinh tấn tu học như nhau, không phải tào lao nhiều rồi thương nhau. Cứ tưởng gặp nhau đem ba tình hình trong nước, quốc tế, trong nhà ngoài ngõ, chuyện nấu ăn, chuyện chồng con nói cho đã miệng thì sẽ thương nhau. Nghĩ vậy là sai. Cho dù nói suốt một ngày thì chúng ta chỉ khinh nhau thôi, sẽ nghĩ về nhau không ra gì hết. Cái đầu của anh rỗng thì ngôn ngữ của anh mới rỗng, làm sao nể được một người đầu rỗng dù chính mình cũng rỗng. Phiếm luận là dấu hiệu chính xác nhất về một cái đầu rỗng tuếch. Chỉ có rỗng mình mới nói nhau quá nhiều chuyện tào lao.

Chuyện quan trọng nữa đó là tôi bảo đảm bà con một điều, cứ nói tào lao một lát không giận nhau mới lạ. Cứ nói một lát là thất niệm, và khi thất niệm thì sẽ nói nhiều câu làm người ta không vui, 99% là như vậy. Tôi tận tai tận mắt chứng kiến những cuộc trò chuyện của Phật tử trong chùa, bà A khen bà B: Con bà, thằng Tý giờ đẹp trai, ngoan, giỏi ghê. Mình biết là lời khen không thật, người ta nghe khen là biết khen dóc chớ, chỉ chuyện khen dóc cũng đủ làm người ta phiền rồi, nói chi đến châm chích. Vì vậy Đức Phật dạy đệ tử của Ngài khi gặp nhau thì trao đổi giáo lý hoặc im lặng như bậc thánh.

Trong kinh này ngài Mục Kiền Liên nói đến thiền Chỉ Samatha và nói rõ là tầng Nhị thiền. Thời Đức Phật chuyện đắc thiền rất dễ. Vì sao ngài nói tầng này? Nhị thiền chấm dứt Tầm và Tứ, hai điều kiện để ta nói năng.

Nói gọn thì tâm chỉ có một, nhưng nói phân tích thì có 121 tâm (mind) cộng với 52 tâm sở (mental factors). Tâm chỉ là cái biết, còn tâm sở là những thành tố tâm lý. Ví dụ khi nhìn mà biết những cái đó hình tròn hay vuông, là nhờ tâm sở tưởng – kinh nghiệp tích lũy do mình học và nghe từ lâu. Trong cái biết có vui có buồn, có hững hờ bình thản, gọi là thọ, tâm sở thọ. Trong cái biết đó có tham thích ghét sợ, được gọi là tâm sân. Trong một cái tâm có vô số sở hữu trong đó, nhưng thật ra có hai tâm sở chịu trách nhiệm nói năng cho mình đó là tầm và tứ. Theo chú giải, chính nhờ có tầm và tứ mình mới nói chuyện được, không có hai tâm sở này mình không tiếp xúc với nhau được. 

Bà con nào thấy lạ thì xem thêm trong kinh Đại Phương Quảng, Trung Bộ Kinh và và Kinh Phúng Tụng, Thập Thượng trong Trường Bộ sẽ thấy rằng thân hành là hơi thở; khẩu hành là tầm, tứ; ý hành là thọ, tưởng. Không bàn tới yếu tố thân hành và ý hành, ở đây chỉ bàn đến khẩu hành là tầm, tứ. Một cái tâm có rất nhiều tâm sở đi chung nhưng để nói năng phát biểu thì cần đến hai tâm sở tầm và tứ này. Tầm, tứ nghĩa là trước hết mình phải lựa chữ, coi chữ nào thích hợp (dù có lựa sai cũng là có lựa); bởi vì ở loài bàng sanh cũng có tầm, tứ nhưng không giống mình, không đủ để nói năng; chỉ có chư thiên và loài người mới có tầm, tứ đúng mức để tiếp xúc nói năng. Đây là đang nói ở cõi Dục. 

Ngài Mục Kiền Liên nói rằng, khi an trú trong tâm thiền thì không còn nói chuyện nữa, nếu không có thiền thì dù im lặng đôi khi cũng còn có ý lắng nghe hay muốn nói. Khi ta còn có nhiều nhu cầu ăn uống thì ta sẽ mất rất nhiều thời gian cho chuyện ăn uống, rồi nảy ra nhu cầu ăn cho ngon, mặc cho đẹp, cho sang, cho người ta nể. Như vậy sẽ mất rất nhiều thời gian. Quí vị sẽ thấy bài kinh này không nói gì chuyện ăn uống, nhưng tôi cố ý đề cập đến. Ngài Mục Kiền Liên nói khi càng nhiều nhu cầu thì càng mất nhiều thời gian cho những nhu cầu đó, kể cả nhu cầu nói năng. Bỏ hết các nhu cầu đó, chỉ còn nói chuyện thôi nếu bỏ luôn thì sẽ tiết kiệm rất nhiều thời giờ.

Khi ta còn có nhiều nhu cầu thì ta sẽ phải tiêu tốn thời gian, năng lượng cho chúng. Càng ít nhu cầu sinh hoạt thì ta càng có nhiều thời gian, công sức cho những việc thật sự quan trọng.

Khi kể lại chuyện lúc mới tu, ngài Mục Kiền Liên nói lúc đó chính Đức Thế Tôn hướng dẫn từng bước cho ngài đi từ chỗ không có thiền đến chỗ đắc Sơ, Nhị, Tam, Tứ thiền Sắc giới, rồi bốn tầng Vô sắc. Chính Đức Thế Tôn dạy cho ngài luyện thông. Vì sao vậy, đâu có người đệ tử nào được như vậy mà sao ngài lại được như vậy? Vì hai lý do: ngài đã nguyện từ một A-tăng-kỳ trước là trở thành vị Đệ nhất thần thông của một vị Phật tương lai. Hôm nay muốn giúp cho ngài thành tựu đó nên Đức Phật giúp cho ngài Mục Kiền Liên làm trọn tâm nguyện. Với sự giúp sức của Đức Phật thì ngài Mục Kiền Liên sẽ phát triển đến tận cùng khả năng của một vị Thanh văn. Hơn nữa, mang tiếng là giúp nhưng Đức Thế Tôn không mất nhiều thời gian, vì đây là sở trường của ngài Mục Kiền Liên. Đức Thế Tôn chỉ bỏ ra một ít thời gian. Đức Thế Tôn đã hướng dẫn ngài Mục Kiền Liên bằng cách dạy cho ngài từng bước tu tập thiền định

Có hai cách tu thiền:

– ‘Visesabhagiya’: Hướng đến các tầng cao hơn, để an lạc hơn gọi là

– ‘Hanabhagiya’: Bỏ dần các chi thiền để bớt phiền, để tâm ngày càng ít thô thiển

‘Hana’: bỏ dần (reducing)

Tu là để bỏ bớt những cái xấu, phiền không nên có, trau dồi để có thêm những điều tốt như tri ân, kham nhẫn, hành xả, trí tuệ. Có người tu bằng cách nghĩ đến chuyện giảm bớt, có người nghĩ đến chuyện phát triển; cả hai đều là tu hết. Ở đây ngài Mục Kiền Liên được hướng dẫn là tu giảm, giảm bớt cho nhẹ, tu để giảm bớt những chi thiền như tầm, tứ, hỷ, lạc, bỏ hết; cuối cùng còn định với xả, lúc đó ngài đắc Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Có người tu bằng cách tăng. Tuy nhiên hai cách không khác nhau. 

Nguyên tắc của bài kinh này: Khi tủ của mình chứa quá nhiều đồ tốt thì không còn chỗ cho đồ tào lao nữa. Cách một: dọn hết đồ tào lao trong tủ để dành chỗ chứa đồ tốt; cách hai: từng bước từng bước chất dần đồ tốt thì đồ tào lao sẽ bị đẩy ra. (Ví dụ, tháng này quí vị gởi tôi đôi giày da hươu, tháng sau quí vị gởi tôi hộp đồng hồ Rolex, một cái jacket hiệu Angelo Litrico của Ý, tháng tiếp gởi tôi áo len của Mông Cổ, khăn choàng của Thụy Điển, quí vị gởi đi, tôi chỉ cách dọn tủ hay lắm, tôi đẩy món đồ của China ra, tôi hứa sẽ quay phim gởi clip cho quí vị coi.)

Tu có hai cách, một là tập trung bỏ dần đồ xấu, cách hai là tập trung tăng trưởng đồ xịn đồ tốt.

Bài kinh này sâu ở chỗ: càng bớt đi nhu cầu tào lao thì không còn mất thời gian cho những thứ đó nữa. Không phải bỗng nhiên ngài kêu mình im lặng, khi im lặng thì mình sẽ có nhiều thời gian cho chuyện khác. Bởi vì, nói năng là một phần rất lớn trong nhu cầu sinh hoạt của chúng ta. 

Quí vị cứ ngỡ rằng tôi vui lắm, tôi giống quí vị lắm, an lạc lắm, nhưng quí vị cứ thử qua đây sống một ngày, quí vị chết ngay chết thẳng cẳng không kịp nhắm mắt là vì bốn bề quanh tôi trừ những ngày tôi về Thụy Sĩ, bình thường thì chỉ có rừng thông thôi, buồn lộng lẫy luôn. Nhưng phải nói nhờ vậy mà có thời gian nhiều. Chớ còn có thời gian nói năng, ăn rồi cứ a lô, chát, thì không còn thời gian, Tết tới nơi rồi. Còn một chuyện rất là vô minh mà nói ra người ta chém mình chết. Tết là ngày buồn chớ mắc gì phải vui. Tết báo cho biết mình thêm tuổi, không có Tết mình đâu có nhớ mình thêm tuổi, chính vì nhớ mình thêm tuổi mình buồn. Mắc gì Tết mặc đồ mới đi chúc tân xuân này tân xuân kia, Tết là một dấu mốc cho mình biết mình già hơn. Quí vị tự hỏi mình còn khả năng ăn được bao nhiêu cái Tết nữa. Nguyễn Bá Thanh, nhân vật chói sáng của chính trường VN, gần Tết mà qua không nổi. Đọc báo thấy có những người cận Tết mà bị tai nạn giao thông ở VN, nghe mà đứt ruột. Cận Tết rồi mà cũng ăn tết không nổi. Nhà thơ Nguyễn Bính còn một ngày nữa là Tết mà qua không nổi, nhiều lắm. Nhưng nhớ kỹ lại, mà qua để làm gì, ngày nào cũng như ngày nấy thôi. Tết chỉ là dấu mốc của thời gian.

UPATISSA

Kinh này lại sâu theo kiểu khác. Ngài Xá Lợi Phất dạy rằng, đối với người như ngài thì chuyện đời bây giờ có ra sao nữa, có bao nhiêu mất mát hoang tàn ngài cũng không vì vậy mà buồn. Hãy tự hỏi khả năng hạnh phúc của mình so với khả năng đau khổ lớn bé bao nhiêu phần trăm. Khả năng đau khổ của mình lớn lắm, bởi vì, những chuyện mình gặp trong ngày, trong tháng, trong năm toàn là chuyện buồn, chuyện bất toại. Những cái mình thích, những người mình thương mà họ bị trục trặc gì mình lại cũng khổ nữa. Mình bị khổ theo nhiều cách. Trong khi đó, những chuyện như ý vốn không nhiều mà lại rất dễ dàng mất đi.

Khả năng đau khổ luôn lớn hơn khả năng hạnh phúc vì hai lẽ: bản chất của thế giới là vô thường là khổ, và phàm tâm của chúng sinh là phiền não, luôn có khuynh hướng ôm cái này, tống khứ cái kia. Thánh nhân không vậy, thánh nhân đánh giá mọi thứ giống như nhau. Họ tùy duyên, cái gì đến thì nhận, họ luôn sống trong tỉnh thức, không đặt điều, không hình dung, không liên tưởng. Không đặt điều nghĩa là không thêu dệt nên chuyện. 

Hôm qua là ngày Valentine, có một người con gái ghé ngang chỗ tôi, đưa cho tôi hũ chao, sau đó cô ấy sẽ ghé nhà người bạn trai. Ngồi nói chuyện với tôi một chút, có cú phone, thế rồi cô vội vã ra đi bỏ quên cái bông hồng. Khi cô đi rồi tôi nghĩ cô cố ý để lại cái bông hồng cho tôi, có điều tôi lấy làm lạ tại sao tặng hũ chao mà kèm cái bông hồng, tại sao tặng bông hồng mà lại kèm hũ chao. Nhưng dù sao đêm đó tôi không ngủ vì mùi Versace còn dính đâu đó trên bông hồng. Tôi đem cành hoa vào phòng, để trên gối không ngủ, pha bình trà thật đậm, làm thật nhiều thơ. Cuối cùng lúc hai giờ sáng người ta gọi phone cho tôi nói là đã để quên đóa hồng, phải đi mua hoa khác. Thêm một lần đau khổ. Chỉ là ví dụ thôi chứ ai mà cho chao. Đó là liên tưởng! Phàm phu là vậy đó. Hũ chao thì mình không nghĩ ngợi nhiều, nhưng vì đó là ngày Valentine, lại là bông hồng, lại là phụ nữ, lại là trẻ tuổi, lại là có nhan sắc, thế là ta bèn cộng hết mấy thứ này lại để mà mất ngủ.

Khi ngài Xá Lợi Phất kể lại rằng đời này không có sự kiện, biến cố nào khiến cho ngài phải phiền lòng hết, là vì mọi sự phải là như vậy. Ngài Ānanda nghe vậy mới hỏi: Giả định như bậc đạo sư, Đức Thế Tôn có mệnh hệ chi, tôn giả có vì vậy mà buồn không?

Ngài Xá Lợi Phất trả lời: Tôi rất thương kính Thế Tôn tôi mong Thế Tôn trụ thế lâu hơn nữa để độ sinh, nhưng tôi chắc Thế Tôn sẽ có ngày ra đi, và trong bất cứ giây phút nào Thế Tôn có chuyện gì thì tôi cũng không vì vậy mà đau khổ hay phiền lòng.

Đây là một bài kinh rất sâu, sâu cả suy nghĩ của ngài Xá Lợi Phất và sâu cả câu hỏi của ngài Ānanda vì ngài Ānanda biết trong lòng ngài Xá Lợi Phất thì Đức Phật là tất cả. Còn chúng ta thì nói tứ đại giai không chớ có một vài món đồ, một vài con người có chuyện gì thì mình lo sốt vó.

Ngài Xá Lợi Phất có bảy anh em đều xuất gia và đều là A-la-hán, trong đó có ngài Upasena Vangantaputta. Upasena là tên của ngài do cha mẹ đặt, Vanganta là tên của cha; putta nghĩa là ‘con’. Vì vậy Upasena Vangantaputta là Upasena con của ông Vanganta. Ngài Xá Lợi Phất tên là Upatissa Sariputta nghĩa là Upatissa con của bà Sari.

Upasena Vangantaputta là một vị pháp sư, một vị A-la-hán rất nổi tiếng. Bữa trưa đó, ngài ở chung với chư tăng trên núi, đang khâu lá y, ngài bị một loại rắn cực độc cắn. Vì là vị La-Hán lục thông, ngài biết không thể nào qua được bữa nay, ngài nhìn qua ngài Xá Lợi Phất và nói: Thưa tôn giả, tôi đã bị rắn cắn, tôi không thể qua khỏi, xin tôn giả nhờ huynh đệ khiêng tôi ra ngoài sân giùm, tôi không muốn qua đời trong hang này.

Theo tôi nghĩ là ngài Upasena Vangantaputta không muốn hang bị bất tịnh, gây khó chịu cho mọi người sống trong hang. Quí vị tưởng tượng em ruột của mình sắp chết trước mặt mình thì tâm trạng đáng sợ biết chừng nào, nhưng ngài Xá Lợi Phất là vị A-la-hán, lúc đó ngài nói: Thật vi diệu thay, thật hi hữu, thật đặc biệt thay. Hiền giả Upasena gần viên tịch rồi mà sắc diện vẫn tươi sáng hồng hào không lo âu sợ hãi.

Trong giây phút cận tử như vậy mà hai anh em vẫn nói chuyện và anh thì khen em. Ngài Upasena trả lời: Thưa tôn giả, chính từ lâu tôi đã không coi cái thân này là của mình, nên hôm nay ở bối cảnh này tôi vẫn an lạc như vậy.

Đây là bài kinh đáng được bà con nghiên cứu. Hai anh em đi tu không cha không mẹ giữa rừng sâu núi thẳm, thình lình người em bỏ anh đi, đau chứ. Thật ra mấy thầy anh em trong nhà tôi mỗi người sống mỗi nơi nhưng nếu ai chết tôi cũng đau, làm sao mà khen, gần chết rồi vẫn còn đẹp trai làm sao khen nổi. Vậy mà vẫn khen được, thái độ của ngài dạy dỗ cho hàng hậu tấn rất là nhiều.

Điểm sâu sắc ở bài kinh này: hãy tự hỏi khả năng đau khổ của mình so với khả năng hạnh phúc cái nào lớn hơn, dĩ nhiên là đau khổ lớn hơn. Tại sao vậy? Bởi vì, mình ôm giữ cái gì được là mình ôm, mai này nó vuột khỏi tay thì đau khổ vô cùng. Phải thường xuyên tâm niệm như Đức Phật dạy: Mỗi ngày phải nhớ rằng mình hoàn toàn chịu trách nhiệm những gì mình nói, làm và suy nghĩ. Phải tâm niệm chắc chắn sẽ có một lúc mình lìa bỏ những gì mình thương thích dù người hay vật. Phải thường xuyên tâm niệm nếu mình không đi sớm thì chắc chắn mình sẽ có tuổi già, và chắc chắn mình sẽ trải qua những cơn bạo bịnh kinh hoàng. 

Nếu sống hơn trăm tuổi thì sẽ có lúc bị lẫn. Hôm nay những lời thề non hẹn biển, những buổi gặp gỡ lãng mạn, bao nhiêu danh vọng, tiền bạc trong bank, tất cả sẽ đi vào bóng tối của biển dâu khi ta đi vào một trăm và một trăm hơn, sẽ quên sạch không còn nhớ gì cả. Cựu tổng thống Reagan, một con người đầu óc bén nhạy như vậy mà khi mãn nhiệm, sống cuộc đời của một người dân bình thường, về già mắc chứng Alzheimer, ông quên sạch sẽ, quên cả người vợ của mình, bà Nancy. Trong ngày sinh nhật của ông, khi bà hôn ông như mọi khi, ông hỏi: Bà là ai? Một câu hỏi tàn nhẫn vô cùng, ông quên mất, ông an trú vào “vô tâm bạc tình tam muội” nên quên sạch. Nếu bây giờ mình không chết sớm thì chắc chắn sẽ có lúc mình bịnh, chắc chắn sẽ có lúc mình già, lìa bỏ những gì mình thương thích, và chắc chắn mình phải chịu trách nhiệm những gì mình nói, làm và suy tư; mình không đem theo tài sản xuống mồ mà chỉ đem theo công đức và ác nghiệp.

CÁI GHÈ

Một ngày kia ngài Xá Lợi Phất gặp ngài Mục Kiền Liên da dẻ sắc nhuận hồng hào. Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Bữa nay hiền giả an trú trong pháp nào mà lại được như vậy? Trong thời Đức Phật, câu hỏi này là một trong những câu rất phổ biến bởi thời đó thánh tăng nhiều như sao trên trời. Một bậc thánh đắc thiền hay phàm đều có nhiều khả năng an dưỡng tốt lắm, mỗi ngày họ chỉ ăn một chén cơm trắng nhưng họ vẫn có thể an lạc gấp triệu lần người bình thường, họ không có đẹp trai nhưng có sự thu hút khó cưỡng, bởi họ có sự an dưỡng tinh thần rất tốt. Tôi làm thầy chùa từ nhỏ, tôi để ý các vị mới xả thiền, không biết họ có đắc gì không nhưng mặt họ lạ lắm, hành giả tu tinh tấn sau khi xả thiền mặt họ sáng đẹp lắm, giống như người thuộc về cảnh giới khác.

Có những lần Đức Phật hỏi ngài Mục Kiền Liên hôm nay an trú pháp gì, thường là câu trả lời: Con bỏ ra nhiều giờ để an trú trong Vô tướng tâm định, hoặc trong Từ tâm giải thoát. An trú trong Từ tâm giải thoát thì mong cho chúng sinh ai cũng được an lạc. Với tâm như vậy kéo dài nhiều giờ đồng hồ, gương mặt sẽ đẹp như Phạm thiên vậy. Khi an trú trong Vô tướng tâm định giải thoát thì không thấy chúng sinh là chúng sinh nữa mà chỉ thấy toàn là danh sắc, chớp nhoáng, nhìn thiên hạ chỉ là những đốm sáng chớp lóe thì lòng nhẹ lắm. 

Dĩ nhiên là tôi đâu có đắc cái gì đâu nhưng thỉnh thoảng tôi nhìn bầy kiến, tôi liên tưởng những vị trời, vị thánh nhìn mình ghen tuông, buồn vui, danh lợi cũng như nhìn bầy kiến lúc nhúc, trong khi mình ở trong đó mình quan trọng buồn vui, tiếng tăm, tiếng tai, khen chê. Nếu mình nhìn vạn người trong thiên hạ như bầy kiến thì mình an lạc cỡ nào. Những lúc an trú các ngài nhìn thấy tất cả chỉ là giọt nước trong dòng nước, chỉ là đốm sáng chớp lóe trong đêm liên tục tiếp nối nhau sanh diệt, đó là Vô tướng tâm định giải thoát.

Khi ngài Xá Lợi Phất nhìn thấy ngài Mục Kiền Liên và hỏi an trú trong pháp nào mà lại sáng như vậy, ngài Mục Kiền Liên đáp chỉ là bình thường thôi.

Theo chú giải, ngài Mục Kiền Liên kể cho ngài Xá Lợi Phất nghe:

Hôm nay Thế Tôn đang ở chùa Kỳ Viên, lúc đó tôi không có ở chùa Kỳ Viên, tôi đang ở chỗ khác, tôi suy nghĩ Thế Tôn bây giờ đang ra sao.

Tadā kira thero ‘‘kathaṃ nu kho etarahi satthā viharatī’’ti ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbena cakkhunā satthāraṃ jetavane vihāre gandhakuṭiyaṃ nisinnaṃ disvā tassa dibbāya sotadhātuyā saddaṃ suṇi. Lúc bấy giờ tôn giả dùng thiên nhãn bằng cách sử dụng đề mục ánh sáng xem Thế Tôn đang như thế nào và nhìn thấy Thế Tôn ở chùa Kỳ Viên và ngài lắng nghe Thế Tôn.

Ngay lúc đó Thế Tôn đang ở chùa Kỳ Viên đang nghĩ về ngài Mục Kiền Liên và cũng lắng nghe xem ngài Mục Kiền Liên nói gì. Ngài Mục Kiền Liên nói với ngài Xá Lợi Phất: Hôm nay tôi chỉ biết có cảnh sắc và cảnh thinh. Cảnh sắc là hình ảnh Thế Tôn, cảnh thinh là tiếng nói Thế Tôn. Khi nhìn thấy Thế Tôn, ngài Mục Kiền Liên hỏi: Bạch Thế Tôn, thế nào là tinh tấn.

Quí vị có thể lấy làm lạ vì sao một vị A-la-hán mà lại hỏi như vậy. Chuyện đơn giản thôi, giống như hai người chơi đồ cổ có cả kho đồ, khi cần thì tiện tay lấy ra một món bàn thảo mà thôi. Khi đó, Đức Phật dạy: Tinh tấn đúng mức thì coi cái thân này không là gì hết.

Có ba hạng hành giả, bậc hạ thì tọa thiền thiền hành có giờ, hết giờ thì tự do trong mọi chuyện vui chơi, bậc trung thì ngoài giờ hành thiền thì chỉ làm những chuyện tốt như nghe pháp, tụng kinh, tuy nhiên vẫn có thất niệm. Bậc thượng không có ranh giới phân biệt lúc nào tu và không tu. Việc nào cũng bằng chánh niệm như nhau. Việc gì cũng là cơ hội để chánh niệm, chỉ tinh tấn như vậy mới có thể là hành giả bậc thượng.

Hôm qua tôi dịch bài của một thiền sư, ngài có nói một chuyện rất là thú vị, đó là tất cả mọi chuyện trên đời này muốn làm cho xong thì phải có sự cố gắng, cố gắng nào cũng gắn liền sự mệt mỏi, riêng sự cố gắng của người tu tập thiền Quán thì không. Càng cố gắng thì càng an lạc, còn chuyện đau lưng hay buồn ngủ thì đó là nhu cầu đòi hỏi của thân xác sinh học. Tất cả mọi chuyện dù chúng ta là chính khách, thương gia, nông dân… thì bất cứ nỗ lực nào cũng là mệt mỏi, kết quả đem lại thì bất toàn. Riêng đối với hành giả Tứ Niệm Xứ thì càng tu tập càng tinh tấn thì khả năng an lạc càng lớn. 

Giả định như tôi có hai người bạn rất thân, một người đời sống tinh thần rất tốt, là một hành giả Tứ Niệm Xứ rất tinh tấn, người này rất là nghèo, còn người thứ hai là không biết gì về Tứ Niệm Xứ, nhưng rất giàu và gia đình rất là như ý hoàn hảo. Nói thiệt, trong tận đáy lòng của tôi, tôi nhìn cái anh nhà nghèo tu Tứ Niệm Xứ tinh tấn tôi yên tâm về sự an lạc của anh ta. Nếu nhìn người thân của tôi giàu có mà không biết Tứ Niệm Xứ là gì, tôi rất e ngại hạnh phúc của họ. Khi anh không phải là người học đạo, hành đạo thì khả năng đau khổ của anh rất lớn. Anh có thể dựa vào đâu để tin rằng có thể giữ được vợ, con, tài sản, mạng sống và sức khỏe của mình? Ai ở VN thì biết, chỉ tai nạn giao thông thì đã luôn luôn rình rập hạnh phúc của mỗi người. Bầu khí quyển của mình độc hại cỡ nào, khả năng ung thư của nhân loại nhất là xứ nghèo, rất lớn.

Ngài Xá Lợi Phất nghe ngài Mục Kiền Liên kể như vậy, ngài tán dương: Người như tôn giả thật đặc biệt, ở xa Thế Tôn mà có thể tiếp xúc với Thế Tôn dễ dàng như vậy. Khả năng thần thông của tôi so với tôn giả, giống như đem hạt sỏi so với núi Himalaya.

Ngài Mục Kiền Liên khen lại: Trí tuệ chúng tôi đem so với tôn giả thì giống như một hột muối để cạnh lu muối.

Trong chú giải có nói vì sao hai ví dụ chênh lệch như vậy. Đây là hình ảnh rất đẹp, bởi vì thiền định hay thần thông là tục đế, là cái gì đó hoành tráng, hùng vĩ mà mình có thể thấy biết được bằng mắt thường nên là ngọn núi là đúng. Còn cái thâm sâu vi diệu là cái gì rất trừu tượng, hình ảnh hạt muối bên cạnh lu muối có ý nghĩa rất hay, vì trong cái nhìn tới nơi tới chốn như ngài Xá Lợi Phất thì hình ảnh ví dụ có lớn bao nhiêu cũng vậy thôi và nhỏ bao nhiêu cũng vậy thôi, chỉ cần đưa ra hình ảnh để phân biệt lớn và nhỏ là được rồi, xuất sắc là ở chỗ đó. Ngay trong bản chất trí tuệ, vốn dĩ nhìn thấy mọi sự đã là hư không, là rỗng.

Bây giờ đã là bảy giờ hai mươi. Giảng luôn bài Tân Tỷ Kheo nữa rồi nghỉ nghen.

TÂN TỶ KHEO

Kinh này muốn nói dài thì dài, muốn nói ít thì ít. Vị tỳ kheo được nhắc đến trong kinh này là một vị A-la-hán lục thông. Vị này ngoài việc chứng đắc thiền định thần thông, vị này còn chứng đắc quả vị La-Hán. Khuynh hướng tâm lý chung của các vị La-Hán là sống ẩn cư thiền định, thấy cái gì không thực sự cần thiết thì không tham gia, góp mặt. Cái gì gây nên phiền toái cho mình cho người thì các vị tránh. Theo trong chú giải khác, các vị A-la-hán thương chúng sinh vô bờ bến, tuy nhiên chính vì cái thương này, những khi nào có mặt giúp được người ta thì các ngài lập tức có mặt. Nhưng xét thấy sự có mặt của mình có thể đem lại sự bất lợi cho người khác thì vì lòng đại bi các ngài lánh mặt. Xét thấy những vị tỳ kheo này còn phàm, mới thọ tỳ kheo mà có lòng bất kính với mình họ sẽ tổn đức rất nặng, nên không đến đó, cứ để cho họ trách mình thì nhẹ hơn; còn hơn để họ tiếp xúc với mình sẽ thêm những điều tổn đức khác.

Thời Đức Phật có vị La-Hán 7 tuổi, các vị tỳ kheo phàm tăng không biết mới bồng lên thảy qua chuyền lại cho các vị kia chụp. Lúc đó Thế Tôn luôn luôn tìm cách trực tiếp hoặc gián tiếp giải thích cho chư tăng biết để đừng tiếp tục giỡn như vậy với vị A-la-hán. Có lần nọ, một vị sa di tên Sumana, học trò của ngài Anuruddha, 7 tuổi mà đắc A-la-hán, các tỳ kheo phàm không biết cũng giỡn như vậy. Thế là Đức Phật gọi chư tăng lại và kêu ngài Sumana làm một công việc mà chỉ có thần thông mới làm được. Từ đó các vị tỳ kheo khác mới nể không dám nữa. Đó là lý do vì sao có một số vị A-la-hán lánh mặt, sống tự cô lập để tránh sự tổn đức cho người khác, đó là lòng đại bi của các ngài. 

Đó cũng là lý do tại sao một cư sĩ chứng La-Hán không thể tiếp tục sống đời cư sĩ bởi nhiều lý do: chiếc áo cư sĩ không đủ chứa đức độ của một vị tu sĩ. Khi đắc A-la-hán thì hoàn toàn không còn tham không còn sân, mặc đồ như vậy thì ở đâu, cũng không lý do gì để mặc đồ cư sĩ. Rồi khi cứ mặc đồ cư sĩ thì người đời không biết, họ đối xử với mình như người đời với nhau, và như vậy là chỉ hại người ta mà thôi. Điều quan trọng nhất là tâm tư của vị A-la-hán chỉ thích hợp với đời sống xuất gia và hình thức xuất gia, vì vậy vị A-la-hán khi chứng rồi, mà xét thấy mình không đủ duyên xuất gia thì phải niết bàn càng sớm càng tốt, có thể trong ngày hoặc trong tuần, đó là lý do vì sao có bài kinh này. 

Bài kinh này cho mình một gợi ý, tùy người, chú ý khía cạnh nào, hãy sống cẩn trọng với những người mình gặp gỡ, dĩ nhiên thời này A-la-hán không nhiều nhưng coi chừng tổn đức. VN có câu: “nhất phá sơn lâm nhì đâm hà bá” là hai nghề tổn đức, vì xúc phạm chỗ ở của nhiều hàng chúng sinh. Trong dòng sinh tử luân hồi phải hạn chế việc làm tổn hại cho người khác, vì mình không biết người mình sẽ gặp là ai, có thể là những bậc thánh, hoặc là những cư sĩ tu hành chân chính, hoặc là những vị Bồ tát mà mình không biết. Cẩn trọng chỉ có tốt chớ không xấu. Không gì bậy cho bằng cả đời tu tập, chỉ vì việc tổn đức mà mình phải đi xuống.
_________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.