Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 4 - Tương Ưng Vô Thỉ (Anamatagga)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 4 - Tương Ưng Vô Thỉ (Anamatagga)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 2
[15] Chương IV: Tương Ưng Vô Thỉ (Anamatagga)

I. Phẩm Thứ Nhất

I. Cỏ Và Củi (Tạp, Ðại 2, 24b) (Biệt Tạp, Ðại 2, 486c) (S.ii,178)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.

2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn.

3) Thế Tôn nói như sau:

-- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

4) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người chặt các cành cỏ, khúc cây, nhành cây, nhành lá, trong cõi Diêm-phù-đề này, chất chúng thành một đống, làm chúng thành những que đặt theo hình các ô vuông, cầm từng que đặt xuống và nói: "Ðây là mẹ tôi, đây là mẹ của mẹ tôi". Và không thể cùng tận, này các Tỷ-kheo, là các bà mẹ, mẹ của người ấy. Nhưng nhành cỏ, khúc cây, nhành cây, nhành lá trong cõi Diêm-phù-đề này có thể đi đến đoạn tận, đoạn diệt.

5) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

6) Cũng vậy, đã lâu ngày, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên.

7) Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.

II. Quả Ðất (Tạp, Ðại 2, 241b) (S.ii,179) (Biệt Tạp 16.5, Ðại 2, 486c)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

3) Ví như, này các Tỷ-kheo, có người từ quả đất lớn này làm thành những cục đất tròn, lớn bằng hạt táo, cầm từng cục đất đặt xuống và nói: "Ðây là cha tôi, đây là cha của cha tôi". Và không thể cùng tận, này các Tỷ-kheo, là các người cha, cha của người ấy. Nhưng quả đất lớn này đi đến đoạn tận, đoạn diệt.

4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

5) Cũng vậy, đã lâu ngày, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và các mộ phần ngày càng lớn lên.

6) Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.

III. Nước Mắt (Tạp, Ðại 2, 240c) (S.ii,179) (Biệt Tạp 16.2 Ðại 2, 486a) (Tăng 51,I, Ðại 2, 814a)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

3) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, cái gì là nhiều hơn? Dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này hay là nước trong bốn biển lớn?

4) -- Bạch Thế Tôn, theo như lời Thế Tôn thuyết pháp, chúng con hiểu rằng, cái này, bạch Thế Tôn, là nhiều hơn, tức là dòng nước mắt tuôn chảy do chúng con than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải nước trong bốn biển lớn.

5) -- Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Lành thay, này các Tỷ-kheo, các Ông đã hiểu như vậy Pháp do Ta dạy!

6) Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo, tức là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này chớ không phải nước trong bốn biển lớn.

7) Trong một thời gian dài, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng mẹ chết.

8) ... các Ông chịu đựng con chết. ..

9) ... các Ông chịu đựng con gái chết...

10) ... các Ông chịu đựng tai họa về bà con...

11) ... các Ông chịu đựng tai họa về tiền của...

12) Trong một thời gian dài, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng tai họa của bệnh tật. Cái này là nhiều hơn, là dòng nước mắt tuôn chảy do các Ông than van, khóc lóc, phải hội ngộ với những gì mình không ưa, phải biệt ly với những gì mình thích, khi các Ông phải chịu đựng tai họa của bệnh tật chớ không phải nước trong bốn biển.

13) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... bị tham ái trói buộc.

14) Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để các Ông nhàm chán, là vừa đủ để các Ông từ bỏ, là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.

IV. Sữa (Tạp, Ðại 2, 241a) (Biệt Tạp 16.3, Ðại 2, 486b) (S.ii,180)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

3) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, cái gì là nhiều hơn, sữa mẹ mà các Ông đã uống trong khi các Ông lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài, hay là nước trong bốn biển?

4) -- Bạch Thế Tôn, theo như lời Thế Tôn thuyết pháp, chúng con hiểu rằng cái này là nhiều hơn, tức là sữa mẹ mà chúng con đã uống trong khi chúng con lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài chớ không phải nước trong bốn biển!

5) -- Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Lành thay, này các Tỷ-kheo, các Ông đã hiểu như vậy Pháp do Ta dạy!

6) Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo, tức là sữa mẹ mà các Ông đã uống trong khi các Ông lưu chuyển luân hồi trong một thời gian dài chớ không phải nước trong bốn biển.

7) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để các Ông giải thoát đối với tất cả các hành.

V. Núi (Tạp, Ðại 2, 242c) (Biệt Tạp, Ðại 2, 487c) (S.ii,181)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Một kiếp, bạch Thế Tôn, dài như thế nào?

4) -- Thật dài, này Tỷ-kheo, là một kiếp. Thật không dễ gì có thể đếm là một vài năm, một vài trăm năm, một vài ngàn năm hay một vài trăm ngàn năm.

5) -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho một ví dụ được không?

6) -- Có thể được, này Tỷ-kheo. Thế Tôn nói như vậy. Ví như, này Tỷ-kheo, có một hòn núi đá lớn, một do tuần bề dài, một do tuần bề rộng, một do tuần bề cao, không có khe hở, không có lỗ hổng, một tảng đá thuần đặc. Rồi một người đến, cứ sau một trăm năm lại lau hòn đá ấy một lần với tấm vải kàsi. Này Tỷ-kheo, hòn núi đá lớn ấy được làm như vậy có thể đi đến đoạn tận, đoạn diệt mau hơn là một kiếp.

7) Như vậy dài, này các Tỷ-kheo, là một kiếp. Với những kiếp dài như vậy, này Tỷ-kheo, hơn một kiếp đã qua, hơn một trăm kiếp đã qua, hơn một ngàn kiếp đã qua, hơn một trăm ngàn kiếp đã qua.

8) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này... vừa đủ để giải thoát.

VI. Hột Cải (Tạp, Ðại 2, 242b) (S.ii,182) (Tăng 52.3, Ðại 2, 825b) (Biệt Tạp 16.12, Ðại 2, 487c)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...

3) Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Một kiếp, bạch Thế Tôn, dài như thế nào?

4) -- Thật dài, này Tỷ-kheo, là một kiếp. Thật không dễ gì để có thể đếm là một vài năm, một vài trăm năm, một vài ngàn năm, hay một vài trăm ngàn năm.

5) -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho một ví dụ được không?

6) -- Có thể được, này Tỷ-kheo. Ví như, này Tỷ-kheo, có một thành bằng sắt, dài một do tuần, rộng một do tuần, cao một do tuần, chứa đầy hột cải cao như chóp khăn đầu. Một người từ nơi chỗ ấy, sau mỗi trăm năm lấy ra một hột cải. Này Tỷ-kheo, đống hột cải ấy được làm như vậy, có thể đi đến đoạn tận, đoạn diệt mau hơn là một kiếp.

7) Như vậy dài, này Tỷ-kheo, là một kiếp. Với những kiếp dài như vậy, hơn một kiếp đã qua, hơn một trăm kiếp đã qua, hơn một ngàn kiếp đã qua, hơn một trăm ngàn kiếp đã qua.

8) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi, này Tỷ-kheo... vừa đủ để giải thoát.

VII. Các Ðệ Tử (Tạp, Ðại 2, 242c) (Biệt Tạp 16.14, Ðại 2, 488a) (S.ii,182)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn...

3) Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Có bao nhiêu kiếp, bạch Thế Tôn, đã đi qua, đã vượt qua?

4) -- Rất nhiều, này các Tỷ-kheo, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể đếm chúng được là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp, một vài trăm ngàn kiếp.

5) -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho một ví dụ được không?

6) -- Có thể được, này các Tỷ-kheo. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có bốn vị đệ tử, tuổi thọ một trăm tuổi, sống đến một trăm năm. Cứ mỗi ngày họ nhớ đến trăm ngàn kiếp, này các Tỷ-kheo, các kiếp được họ nhớ đến là vậy. Bốn đệ tử ấy tuổi thọ một trăm tuổi, sống đến một trăm năm, sau một trăm năm đi đến mệnh chung.

7) Nhiều như vậy, này các Tỷ-kheo, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể đếm chúng được là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp, một vài trăm ngàn kiếp.

8) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để được giải thoát.

VIII. Sông Hằng (Tạp, Ðại 2, 242) (Biệt Tạp 16.10, Ðại 2, 487b) (S.ii,183)

1) ... Trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm).

2) Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn...

3) Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:

-- Có bao nhiêu kiếp, bạch Thế Tôn đã đi qua, đã vượt qua?

4) -- Rất nhiều, này Bà-la-môn, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì để có thể đếm chúng được, là một vài kiếp, một vài trăm kiếp, một vài ngàn kiếp, một vài trăm ngàn kiếp.

5) -- Tôn giả Gotama có thể cho một ví dụ được không?

6) -- Có thể được, này Bà-la-môn. Ví như, này Bà-la-môn, sông Hằng này từ chỗ nguồn bắt đầu đến chỗ nó chảy nhập vào biển. Số cát nằm ở giữa chặng ấy, thật không dễ gì để có thể đếm chúng được là một số hột cát, là số trăm hột cát, là số ngàn hột cát, là số trăm ngàn hột cát.

7) Nhiều hơn vậy, này Bà-la-môn, là những kiếp đã đi qua, đã vượt qua. Thật không dễ gì có thể đếm chúng được, là một số kiếp, một trăm kiếp, là một ngàn kiếp, là một số trăm ngàn kiếp.

8) Ví sao? Vô thỉ là luân hồi này, này Bà-la-môn, khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

9) Cũng vậy, đã lâu ngày, này Bà-la-môn, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên. Cho đến như vậy, này Bà-la-môn, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.

10) Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!

IX. Cây Gậy (Tạp, Ðại 2,242a. Tạp, Ðại 2,112b, Biệt Tạp, Ðại 2,488b) (S.ii,184)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

3) Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây gậy được ném lên trên hư không, khi thì rơi trên đầu gốc, khi thì rơi chặng giữa, khi thì rơi đầu ngọn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc, lưu chuyển luân hồi, khi thì từ thế giới này đi thế giới khác, khi thì từ thế giới khác đến thế giới này.

4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để được giải thoát.

X. Người (Tạp, Ðại 2,242a. Biệt Tạp. Ðại 2,487b. Ðơn tạp 11, Ðại 2,496b) (S.ii,185)

1) ... Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại núi Gijjhakuuta (Linh Thứu).

2) Tại đấy Thế Tôn...

3) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo...

4) Các xương của một người, này các Tỷ-kheo, lưu chuyển luân hồi có thể lớn như một đồi xương, một chồng xương, một đống xương, như núi Vepulla này, nếu có người thâu lượm xương lại, gìn giữ chúng, không làm chúng hủy hoại.

5) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.

6) Thế Tôn nói vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Chồng chất như xương người,
Chỉ sống có một kiếp,
Chất đống bằng hòn núi,
Bậc Ðạo Sư nói vậy.

Ðống xương ấy được nói,
Lớn như Vepulla,
Phía Bắc núi Linh Thứu,
Núi thành Magadha.

Người thấy bốn sự thật,
Với chân chánh trí tuệ,
Khổ và khổ tập khởi,
Sẽ vượt qua đau khổ,

Con đường Thánh tám ngành,
Dẫn đến khổ tịnh chỉ.
Người ấy phải luân chuyển,
Tối đa là bảy lần.
Là vị đoạn tận khổ,
Ðoạn diệt mọi kiết sử.

II. Phẩm Thứ Hai

I. Khốn Cùng (Tạp, Ðại 2, 241c. Biệt Tạp 16.7, 487a) (S.ii,186)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi...

2) Tại đấy...

3) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

4) Này các Tỷ-kheo, khi các Ông thấy sự khốn cùng, bất hạnh, các Ông phải đi đến kết luận: "Chúng ta chịu đựng như vậy trong thời gian dài này".

5) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.

II. An Lạc (Tạp, Ðại 2, 241c) (Biệt Tạp 16.6, Ðại 2, 486c) (S.ii, 186).

1) ... Trú ở Sàvatthi...

2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo...

3) Này các Tỷ-kheo, khi các Ông thấy an lạc, may mắn, các Ông phải đi đến kết luận: "Chúng ta chịu đựng như vậy trong thời gian dài này".

4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.

III. Khoảng Ba Mươi (Tạp, Ðại 2, 240b) (S.ii,187)

1) ... Trú ở Vương Xá, Trúc Lâm.

2) Ba mươi vị Tỷ-kheo xứ Pàvà, tất cả sống ở rừng, tất cả đi khất thực, tất cả mang y phấn tảo, tất cả mang ba y, tất cả đang còn kiết sử, cùng đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Rồi Thế Tôn suy nghĩ: "Ba mươi vị Tỷ-kheo xứ Pàvà này, tất cả sống ở rừng, tất cả đi khất thực, tất cả mang y phấn tảo, tất cả mang ba y, tất cả đang còn kiết sử. Vậy Ta hãy thuyết pháp cho họ như thế nào để ngay tại chỗ ngồi này, tâm của họ được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ".

4) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo" -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

5) Thế Tôn nói như sau:

-- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ, đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

6) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, cái nào là nhiều hơn, dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này, hay là nước trong bốn biển lớn?

7) -- Bạch Thế Tôn, theo như lời Thế Tôn thuyết pháp, chúng con hiểu rằng cái này là nhiều hơn, bạch Thế Tôn, tức là dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích, khi chúng con lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này, không phải là nước trong bốn biển lớn.

8) Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo! Lành thay, này các Tỷ-kheo, các Ông đã hiểu Pháp Ta dạy như vậy!

9) Cái này là nhiều hơn, này các Tỷ-kheo, tức là dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông lưu chuyển luân hồi trong thời gian dài này, không phải là nước trong bốn biển lớn.

10) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu các Ông bị thương tích khi các Ông là bò, sanh ra làm bò trong thời gian dài, hay là nước trong bốn biển lớn?

11) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông là trâu, sanh ra làm trâu trong thời gian dài...

12) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông là cừu, sanh ra làm cừu trong thời gian dài...

13) ... khi các Ông là dê, sanh ra làm dê...

14) ... khi các Ông là nai, sanh ra làm nai...

15) ... khi các Ông là gia cầm, sanh ra làm gia cầm...

16) ... khi các Ông là heo, sanh ra làm heo...

17) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông làm đạo tặc, làm kẻ trộm làng, bị bắt trong thời gian dài...

18) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông làm đạo tặc, ăn cướp đường, bị bắt trong thời gian dài...

19) Này các Tỷ-kheo, dòng máu tuôn chảy do đầu bị thương tích khi các Ông làm đạo tặc, tư thông vợ người, bị bắt trong thời gian dài chớ không phải là nước trong bốn biển lớn.

20) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để được giải thoát đối với tất cả các hành...

21) Thế Tôn nói như vậy, các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

22) Và trong khi lời dạy này được tuyên bố, đối với ba mươi vị Tỷ-kheo xứ Pàvà, tâm các vị ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

IV. Mẹ (Tạp, Ðại 2,241c) (Biệt Tạp 16.9, Ðại 2,487a) (S.ii,189)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo...

3) Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm mẹ...

4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo... là vừa đủ để được giải thoát đối với tất cả các hành.

V. Cha (S.ii,189)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo...

3) Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm cha...

VI. Anh (S.ii,189)

1) ... Trú tại Sàvatthi.

2) -- Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm anh...

VII. Chị (S.ii,189)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm chị...

VIII. Con Trai (S.ii,190)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm con trai...

IX. Con Gái (Tạp, Ðại 2,241c) (Biệt Tạp 16,9, Ðại 2,487a) (S.ii,190)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Vô thỉ là luân hồi, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ, đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

3) Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm con gái.

4) Vì sao? Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ, này các Tỷ-kheo, đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

5) Như vậy, trong thời gian này, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, mộ phần càng ngày càng lớn lên. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.

X. Núi Vepulla (Tạp, Ðại 2,243b) (Biệt Tạp 16.21, Ðại 2,488c) (S.ii,190)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), tại núi Gijjhakùta (Linh Thứu).

2) Tại đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo...

3) Thế Tôn nói như sau:

-- Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo. Khởi điểm không thể nêu rõ đối với sự lưu chuyển luân hồi của các chúng sanh bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc.

4) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi Vepulla này được biết với tên là Pàcìnavamsa. Lúc bấy giờ, dân chúng được biết với tên là Tivàrà. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Tivàrà có tuổi thọ đến 40.000 năm. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Tivàrà phải bốn ngày để leo lên núi Pàcìnavamsa, phải bốn ngày để leo xuống.

5) Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, có hai vị đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Vidhura và Sajìva.

6) Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo, tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc Thế Tôn ấy đã nhập diệt.

7) Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành. Không kiên cố như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành. Bất an như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo là vừa đủ để nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.

8) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi Vepulla này được biết với tên là Vànkaka. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, dân chúng được biết với tên là Rohita. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Rohita có tuổi thọ đến 30.000 năm. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Rohita phải ba ngày để leo lên núi Vànkaka, phải ba ngày để leo xuống.

9) Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, có hai vị đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Bhìyya và Suttara.

10) Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo, tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc Thế Tôn ấy đã nhập diệt. Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành... là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.

11) Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, núi Vepulla này được biết với tên là Supassa. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, dân chúng được biết với tên là Suppiya. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Suppiya có tuổi thọ đến 20.000 năm. Này các Tỷ-kheo, dân chúng Suppiya phải hai ngày để leo núi Supassa, phải hai ngày để leo xuống.

12) Lúc bấy giờ, Thế Tôn Kassapa, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, có hai đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Tissa và Bhàradvàja.

13) Hãy nhìn xem, này các Tỷ-kheo, tên của hòn núi ấy đã biến mất, dân chúng ấy đã mệnh chung, và bậc Thế Tôn ấy đã nhập diệt.

14) Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành. Không kiên cố như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành... là vừa đủ để được giải thoát đối với tất cả các hành.

15) Hiện tại, này các Tỷ-kheo, núi Vepulla này được biết với tên là Vepulla. Hiện tại, này các Tỷ-kheo, dân chúng ấy được biết với tên là Magadhaka. Tuổi thọ dân chúng Magadhaka ấy, này các Tỷ-kheo, là ít, nhẹ, không bao nhiêu, họ sống lâu cho đến 100 tuổi hay hơn một chút. Dân chúng Magadhaka, này các Tỷ-kheo, leo lên núi Vepulla này trong một thời gian ngắn, leo xuống trong một thời gian ngắn.

16) Hiện tại, này các Tỷ-kheo, Ta, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời. Này các Tỷ-kheo, Ta có hai vị đệ tử, hai vị thượng thủ, hiền thiện tên là Sàriputta và Moggallàna.

17) Một thời sẽ đến, này các Tỷ-kheo, tên của ngọn núi này sẽ biến mất, dân chúng sẽ mệnh chung, và Ta sẽ nhập diệt.

18) Vô thường như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành. Không kiên cố, này các Tỷ-kheo, là các hành. Bất an như vậy, này các Tỷ-kheo, là các hành. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là vừa đủ để được nhàm chán, là vừa đủ để từ bỏ, là vừa đủ để giải thoát đối với tất cả các hành.

19) Thế Tôn nói như vậy, bậc Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Pacinavamsa,
Với dân Tivàra.
Tên núi Vankaka
Với dân Rohita.

Tên núi Supassa
Với dân Suppiyà.
Tên núi Vepulla
Với dân Magadha,

Chư hành là vô thường,
Phải sanh rồi phải diệt,
Sau khi sanh, chúng diệt,
Chúng tịnh là an lạc.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 2
Chương 4: Tương Ưng Vô Thỉ

Phẩm thứ nhất:

Có tất cả các bài kinh: Cỏ và Củi, Quả Đất, Nước Mắt, Sữa Mẹ, Núi Non, Hột Cải, Các Đệ Tử, Sông Hằng, Cây Gậy, Người, gom chung lại trong một buổi giảng hôm nay.

CỎ VÀ CỦI

Ở đây, Đức Phật dạy rằng những kiếp sống mà chúng ta đã trải qua nhiều không kể xiết. Điểm độc đáo trong Phật pháp là Đức Phật không bao giờ nói đến cái gì gọi là điểm bắt đầu của dòng luân hồi theo cách nghĩ thông thường, cũng không nói đến cái gọi là hữu biên hay vô biên của vũ trụ. Cho nên, theo Theravada thì không thể chấp nhận được lời nguyện: “Khi nào còn người sinh tử thì ta không thành Phật.” Nam Tông không nhìn nhận câu này. 

Khi nói câu này có nghĩa là nói đến sự giới hạn. Trong Phật pháp thì không có tự đưa mình vào thế kẹt như vậy, vì vậy trong kinh điển Nguyên thủy không có lời nguyện lạ lùng như vậy. Ở đây tôi xin nghiêm túc và một cách đầy trách nhiệm không hề có ý bôi bác dè bỉu châm biếm, tôi chỉ hy vọng bà con khách quan. Ngay bây giờ quí vị vào Google gõ “48 đại nguyện của Phật Di Đà” sẽ thấy những lời nguyện lạ lùng mà bên Nam Tông không chấp nhận. Ví dụ “…không đủ 32 tướng tốt thì ta không thành Phật” thì cũng lạ, “mọi người còn phiền não không hiểu lý giải thoát thì ta không thành Phật”… những câu như vậy bên Phật Giáo Nguyên Thủy không chấp nhận được.

Khi nói đến dòng luân hồi vô thủy, Đức Phật xác nhận rằng chúng ta đã trải qua rất là nhiều, Ngài nói “thật là đã quá đủ để chúng ta nhàm chán, xả ly”. Dù chúng ta có là Phạm thiên, Đế Thích, có là Hoàng hậu, Đế Vương, giàu sang trí thức tiếng tăm quyền lực cỡ nào đi nữa thì cứ hết tuổi đời là phải nằm xuống về đất. Cứ như vậy đó, giả định trong vài ngàn tỷ kiếp liên tục cứ được hưởng vinh hoa phú quí như vậy rồi thì sao? Cứ lặp đi lặp lại. Cái gọi là vinh hoa phú quí chỉ là một sự giả định. 

Quí vị nhìn xuống mặt đất thấy một bầy kiến mấy triệu con đang di chuyển. Giả định như vậy. Trong mấy triệu đó có con làm thủ tướng, tổng thống, có nam nữ, đẹp xấu, giàu nghèo, bình dân, trí thức, cũng có thương hận tình thù, yêu ghét, tôn vinh v.v…. Tất cả những cái gì diễn ra trong “xã hội” loài kiến buồn cười cỡ nào thì xã hội loài người y hệt như vậy. Lấy chiều cao của người cao mét bảy mét tám sống trong xã hội này, trên mặt đất này, hành tinh này thì thấy ghê gớm thiệt, chứ ngồi trên máy bay nhìn xuống thì thấy nản rồi. Nhà cửa lúc nhúc bên dưới, chung cư cao cấp thì giống như đống hộp quẹt chồng lên nhau, vậy mà cái hộp quẹt đó cả đời mình cày chưa chắc mua nổi. Tất cả những gì mình thấy ghê gớm (tài sản, chủ quyền, danh phận, quyền lực v.v…) chỉ là trò hề trong mắt người ngoại cuộc nhìn vào mà thôi. Vậy mà vòng luẩn quẩn trẻ con này đã diễn ra hằng vô số kiếp rồi. 

Cứ sanh ra trong môi trường nào thì mình thấy tất cả những gì xảy ra trong môi trường đó là quan trọng. Ví dụ mình làm con trùn chỉ mà con nít bắt về cho cá ăn, hoặc làm dòi, làm sâu, suốt vô số kiếp mình trải qua đời sống vô vị như vậy, tất cả chỉ là sự lặp đi lặp lại do vô minh che phủ và do tham ái trói buộc. Hết đời này tới đời khác, sanh ra ở đâu được chút đỉnh gì thì thấy quan trọng, ôm ấp giữ chặt trong tay không chịu buông ra. Thái độ giữ chặt này cứ đẩy mình đi tới, mình không có cơ hội để biết rõ mình là ai. Lâu lâu trong chúng sinh xuất hiện nhân vật Sattasara (tinh hoa trong đám phàm phu), tức vị Bồ tát. Bồ tát (bodhisatta) là chúng sinh có sự nhận thức. 

Quí vị đọc thêm kinh Thánh Cầu (Ariyapariyesanasutta) trong Trung Bộ Kinh để thấy được rằng trong vô số chúng sinh ở đời, tuyệt đại đa số sanh ra trong bối cảnh sanh già đau chết, cứ tiếp tục đầu tư kiếm tìm thêm cơ hội sanh già đau chết. Lâu lâu mới có một người sanh ra trong cảnh sanh già đau chết mà biết chán biết sợ, biết nghĩ đến con đường thoát. Người đi tìm kiếm hành trình giải thoát đó là hành trình của thánh nhân. ‘Ariya’: thánh nhân; ‘pariyesana’: sự tầm cầu, kiếm tìm con đường giải thoát. Đa phần thì sanh ra trong bối cảnh nào thì chìm sâu gắm chặt trong cảnh giới đó. Nếu mình có niềm tin thật sự thì thấy cơ hội làm người rất khó, cơ hội gặp được chánh pháp (tức cơ hội biết được mình là ai, từ đâu tới, sẽ làm gì) thì trăm ngàn muôn triệu tỷ ức kiếp mới có một lần.

Đức Phật nói: Giả định như lấy hết tất cả những cây cối trên mặt đất này chẻ nhỏ ra như những que diêm. Lấy những que diêm đó nói rằng đây là cha, mẹ trong đời quá khứ. Cho dù đốn sạch cây cối trên hành tinh này chẻ nhỏ ra từng que diêm như vậy thì số kiếp mình đã từng luân hồi cũng không hết. Ngài dùng hình ảnh này bởi đây là buổi nói chuyện diễn ra cách đây hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ, tùy vào bối cảnh xã hội, văn hóa, trình độ người nghe ngồi trước mặt mà Đức Thế Tôn dùng vô lượng ví dụ cho phù hợp gần gũi với người nghe. Nói xong rồi Ngài nói: Thật là vừa đủ để nhàm chán, để xả ly.

“6) Cũng vậy, đã lâu ngày, này các Tỷ-kheo, các Ông chịu đựng khổ, chịu đựng thống khổ, chịu đựng tai họa, và các mộ phần ngày một lớn lên”.

‘Kaṭasī vaddhita’: “các mộ phần ngày một lớn lên.”

‘Kaṭasī’: nghĩa địa.

‘vaḍḍhitā’: (pp của vaḍḍheti: enlarge) phát triển, bành trướng

Kaṭasī vaddhita: nghĩa trang phát triển. Luân hồi chỉ là hành trình nới rộng nghĩa trang.

QUẢ ĐẤT

Chu vi trái đất là bốn mươi ngàn cây số. Ngài giả định toàn bộ trái đất chỉ bằng đất sét, không có sỏi đá kim loại. Cứ vò từng viên nhỏ nhỏ và nói, đây là cha tôi, đây là mẹ tôi, số đất đó có thể hết nhưng không thể nào kể cho hết được số kiếp mình đã tái sanh và mệnh chung.

NƯỚC MẮT

Ngài dạy rằng, nước mắt mình đổ ra trong dòng sinh tử nhiều hơn nước trong bốn biển.

Thời xưa, người Ấn Độ đã biết được thế giới gồm bốn biển lớn: Ấn Độ Dương, Bắc Băng Dương, Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, tên các đại dương hồi đó là tên khác. Ba phần tư của trái đất này là nước biển, vậy mà trong khi đó nước mắt mình khóc trong dòng luân hồi vì cảnh sanh ly tử biệt, nạn tai v.v… nhiều hơn nước trong bốn biển.

Thời Đức Phật còn tại thế có một cô nàng tên Patācārā, xuất thân là một tiểu thư, đem lòng yêu một người giúp việc. Cha mẹ không chấp nhận, cô lén cùng anh ta trốn đi, sống với nhau và có được ba bốn đứa con. Lần chuyển dạ sau cùng, thấy phải ở cữ trong cảnh túng thiếu khổ sở quá, cô xin phép chồng trở về nhà cha mẹ rồi sau đó trở lại. Anh chồng không đồng ý vì sợ vợ đi luôn. Cô trốn chồng về nhà. Chồng đuổi theo kịp thì cô đã vô giữa rừng, cô mới vừa sanh con giữa rừng. Anh chồng thấy cảnh hai bên hai đứa con nhỏ, còn cô vợ thì khom lưng che cho đứa con mới sanh dưới cơn mưa tầm tã giữa rừng, liền vội đi kiếm củi để đốt lửa cho vợ con được ấm, nhưng anh ta lại bị rắn cắn chết. 

Cô đi tìm chồng thấy đã chết, lòng tan nát, đành bồng con dắt hai đứa nhỏ đi. Lội qua sông, nước cuốn trôi hết chỉ còn một thân một mình. Cô về đến nhà thì nghe nói đêm trước mưa to nhà sập đè cha mẹ chết hết. Cô hóa điên, cởi hết áo quần lang thang vô chùa, gặp Đức Phật đang thuyết pháp. Đức Phật nhìn thấy, biết cô đã tu một trăm ngàn đại kiếp, thời gian tu Ba-la-mật tương đương ngài Ānanda, Ca Diếp, nhưng bây giờ khổ tâm như vậy. Ngài nói: “Con đã khóc từ vô số kiếp, nước mắt của con nhiều hơn bốn biển giờ chưa đủ hay sao còn khóc nữa.” Cô nghe như vậy tỉnh liền, quì sụp xuống. Những người xung quanh liệng khăn choàng cho cô che thân. Cô xuất gia chứng A-la-hán, trở thành Đệ nhất trì luật. Bên tăng có ngài Upāli, bên ni có bà Patācārā là Đệ nhất trì luật. Hai vị này rất giỏi về những gì liên hệ đến Luật của tăng ni.

‘Vinayadharā’: trì luật

SỮA MẸ

Ngài dạy, sữa mẹ mà mình đã bú trong suốt dòng luân hồi nhiều hơn bốn biển.

NÚI

Ngài giả định một hòn đá hay ngọn núi đặc ruột mỗi một cạnh là một do tuần (khoảng 11km), cứ một trăm năm có người đến lấy tấm kāsi (vải mịn nhất) quét ngang một lần, cho đến bao giờ núi mòn đi (1 gram, 2 gram) do chuyện quét vải là một kiếp.

HỘT CẢI

Ngài giả định có một cái thùng hột cải, mỗi cạnh là một do tuần. Cứ một trăm năm lấy ra một hạt cải, lấy chừng nào hết thùng, thì đó là một kiếp. Một dịp khác Ngài dùng ví dụ khác, giả định như có bốn vị đệ tử chứng Túc mạng minh, mỗi một ngày họ nhớ lại một trăm ngàn đại kiếp, suốt một trăm năm như vậy (100 ngàn x 100 năm x365 ngày), số kiếp sống mà họ nhớ được thì cũng không nghĩa lý gì so với số lượng kiếp sống mà chúng ta đã trải qua.

SÔNG HẰNG

Số cát sông Hằng có nhiều cỡ nào cũng chỉ là hữu hạn, nhưng số kiếp luân hồi là vô hạn, vô lượng.

CÂY GẬY

Giống như một khúc cây liệng lên phải rớt xuống ở đầu này hay đầu kia, một chúng sinh còn phàm phu, chết rồi là phải có chỗ đi. Ngày xưa ngài Narada cũng có ví dụ, nếu cầm miếng đất hay cục đá nhắm mắt lại tung lên, thì chắc chắn là từ vị trí mình đứng, sức tung, và trọng lượng hòn đá sẽ quyết định hòn đá rớt ở đâu, lệch về phía nào. Một người còn là phàm phu dù không biết Phật pháp, không biết tu hành hay tu hành giỏi giang thì khi tắt thở là tự nhiên cũng có chỗ để tái sinh. Một người còn vô minh tham ái thì chết rồi là có chỗ để đi. 

Khổ nỗi, suốt dòng luân hồi thăm thẳm, cơ hội làm người và nghe được giáo pháp của Phật thì rất là hiếm. Bao nhiêu người Hồi Giáo cũng sanh ra làm người, trong thời điểm Phật pháp tồn tại ở đời đó chứ, nhưng họ đâu được gặp Phật pháp. Phật tử Campuchia, Lào, cơ hội để nghe Phật pháp so với Phật tử Thái Lan Tích Lan đã không giống. Số lượng Phật tử Thái Lan tìm đến với A-tỳ-đàm, nghiên cứu kinh điển thì rất hiếm, họ chỉ khoái làm phước cúng dường, cầu phúc, bùa phép, đeo tượng này tượng kia, đeo dây ngũ sắc tùm lum. Có chuyện rất là đáng buồn, khi tôi về Bangkok tôi tìm sách A-tỳ-đàm rất hiếm thấy. Đã hiếm mà còn có những cuốn in giấy xấu, đen thui. Tôi hỏi sư bạn, sao mà cũng kinh sách mà cuốn này in đẹp quá còn cuốn kia in xấu. Sư trả lời, mấy cuốn này bán ai mua. Nghe mà ngậm ngùi. 

Có tiếp xúc với chùa miểu tăng ni thấy mới thấy điều này, đã có dấu hiệu mạt pháp rồi. Đi vào chùa học mấy cái này họ chán dữ lắm, nhưng nếu bày cúng sao cúng vong giải hạn thì đông dữ lắm. Phần đông người ta đến chùa thì cầu gia đạo bình yên tình duyên như ý. Thời này làm gì có chuyện vô chùa tìm hiểu Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Duyên khởi, Bát Chánh Đạo… Vì vậy, mang thân người là khó, được gặp chánh pháp là khó, mà còn phải tùy thuộc sanh ra trong bối cảnh nào, tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý, môi trường hiện tại như thế nào.

Trong chú giải có câu này hay: “kira dvinnaṃ buddhānaṃ antare yojanaṃ pathavī ussannā” nghĩa là, trong trái đất này có năm vị Phật, khoảng thời gian giữa hai vị vừa đủ để trái đất này dày thêm một do tuần.

NGƯỜI

Trong bài kinh này Ngài xác nhận, số xương mình luân hồi, chất lại có thể bằng ngọn núi. Vì sao như vậy? Vì trong suốt thời gian đó mình không có cơ hội để hành trì Bát Chánh Đạo. Cơ hội hành trì Bát Chánh Đạo gồm rất nhiều điều kiện. Phải được mang thân người, bối cảnh sống môi trường ra sao, chớ đi chùa mà cứ gặp ông thầy cứ bảo cúng dường, rồi cầu an cầu siêu, lễ lạy sì sụp, chớ hề động tới giáo lý thì không có cơ hội hành trì Bát Chánh Đạo. Phật tử thì tăng ni nói gì cứ nghe theo như sấm. Có nhiều Phật tử có suy nghĩ rất lạ là chỉ có tăng ni học Phật pháp còn cư sĩ thì có quyền dốt Phật pháp. Nếu còn là phàm phu thì tăng ni hay cư sĩ giống y như nhau một hành trình thăm thẳm phía trước, giống hệt nhau trên giường chết, tại sao mình nghĩ người ta cần giỏi Phật pháp còn mình thì không cần giỏi. Phước báu của quí vị nhiều hay ít tùy thuộc vào tâm. 

Ví dụ lúc làm thiện hào hứng hay hờ hững, tâm đại thiện thọ hỷ hay thọ xả. Hữu trợ hay vô trợ, việc lành đó do mình sốt sắng tự nguyện hay do sự do dự tính toán, ai đó xúi giục tác động. Hợp trí hay ly trí, lúc làm thiện có nhận thức hiểu biết hay do người ta xúi. Đừng tưởng ai giỏi ai siêng thì học giáo lý còn tôi thì lo làm phước. Trạng thái tâm thiện quyết định quả báo nhiều hay ít. Chính khả năng hiểu biết của mình góp phần vào cái gọi là trạng thái tâm thiện đó. Vì vậy, mang thân người, gặp được Phật pháp, tùy căn cơ sở tánh, khả năng tiếp thu của mình tới đâu thì mới quyết định việc công đức của mình được bao nhiêu. 

Nếu không đủ trí khi gặp Phật pháp mình chỉ biết làm phước rồi nhìn Đức Phật như ông thần ông bụt, chỉ biết quì lạy van xin khấn khứa mà không biết gì khác. Krishnamurti nói Đức Phật như lu nước, để mình dùng, mình uống chớ không phải là để mình quỳ lạy. Không ai mua cái lu về quì lạy. Ông dùng hình ảnh thiếu tôn kính nhưng thực tế. Đức Phật không phải là một hình ảnh thần thánh để mình quì lạy mà để mình tìm hiểu Ngài giác ngộ cái gì, hành trì cái gì, giảng dạy cái gì, đó mới là điều quan trọng. Khổ nỗi trong dòng luân hồi này khi có chư Phật ra đời thì mình không có cơ hội học hỏi, khi mình có khả năng học hỏi thì không gặp chư Phật. 

Tôi đọc sách và tôi tiếp xúc ở ngoài, lâu lâu tôi cũng gặp vài người, tôi nghĩ nếu gặp được Đức Phật thì tôi không biết họ đắc hay không nhưng tôi có cảm giác là họ có khả năng đắc rất là nhiều. Theo nhận xét của tôi, họ là người thiểu dục, có từ tâm, rất là thông minh, có nhiều đức tánh tốt. Xui một chỗ là người thời nay đáng làm thầy của họ thì khó kiếm quá. Mình nghĩ với tâm hồn đó mà gặp được ngài Ānanda, Xá Lợi Phất thì tốt biết bao nhiêu. Giờ họ sanh ra trong thời này, tìm hiểu Phật pháp qua sách qua tăng ni thì cũng chung chung mức độ nào đó thôi.

Phẩm thứ hai: 

KHỐN CÙNG –AN LẠC

Khi mình thấy khổ quá hãy suy tư rằng ta đã phải chịu cảnh này từ vô số kiếp. Khi thấy mình đang an lạc thì cũng nhớ rằng mình đã trải qua cảnh này trong vô số kiếp. Tại sao phải nhớ như vậy? Nhớ để lạnh xương sống! Dù có sung sướng hạnh phúc bao nhiêu kiếp thì cũng cứ trồi lên trụt xuống. Quí vị có sung sướng cỡ nào đi nữa thì làm ơn nhớ giùm tôi một chuyện thôi, nếu nhớ liên tục thì cuộc đời quí vị chắc chắn có thay đổi, đó là Đức Phật dạy rằng: Chỉ riêng sự sợ chết, nỗi sợ lúc sắp ra đi cũng đủ làm cho ta kinh hãi dòng luân hồi. 

Tôi, người đang nói chuyện với các vị đây, tết này là 47, tôi đã từng trải qua cảm giác cận tử ở phòng cấp cứu, tôi biết. Sợ lắm. Lúc tỉnh táo khỏe mạnh, mình nhìn người khác chết, mình nghĩ về cái chết “có gì đâu, sớm nở tối tàn, phù du mà!” Nhưng cảm giác của người sắp ra đi, dễ sợ lắm. Tùy người, mỗi người có một cái sợ riêng. Tôi là người nam, là ông sư, không hiểu sao cứ nói đến dòng luân hồi là tôi nghĩ đến cảnh làm dâu. Đức Phật có dạy trong kinh Tăng Chi: Bất hạnh thay là thân nữ nhân. Từ bé đến già phải chịu nhiều bất hạnh. Mỗi tháng phải chịu bất tịnh. Lấy chồng phải về với người lạ. Phải đau đớn mang thai, sinh sản, chăm sóc con nhỏ. 

Đây là Ngài kể những nét chính thôi, chớ còn cảnh làm dâu, cảnh nhìn người thương của mình bị khổ mà cứu không được, bị chèn ép áp bức mà không dám lên tiếng, liệt giường ngứa lưng mà không biết làm sao mà gãi. Hãy nhớ từ nhỏ đến giờ giây phút mình có thể cười được chiếm bao nhiêu phần trăm thời gian trong đời? Tôi không phải là khổ cực gì nhưng nhớ lại khoảng đời đã qua tôi nghĩ tốt hơn hết là đừng có. Vì vậy Đức Phật dạy, khi buồn khổ hay hạnh phúc thì phải nhớ rằng cảnh này đã diễn ra bao nhiêu lần rồi.

KHOẢNG BA MƯƠI

“Ba mươi vị Tỷ-kheo xứ Pāvā, tất cả sống ở rừng, tất cả đi khất thực, tất cả mang y phấn tảo, tất cả mang ba y, tất cả đang còn kiết sử”

Chú giải nói rằng ba mươi vị tỳ kheo này đều là thánh Hữu học, không ai trong số này là phàm phu hay La-Hán. Tất cả đều là những vị trì hạnh Đầu đà (dhutaṅga).

Bên cạnh giới luật bắt buộc phải giữ, vị tỳ kheo nếu muốn có thể phát nguyện giữ thêm một hay vài hoặc cả mười ba hạnh Đầu đà như: suốt đời không nằm, chỉ ăn mỗi ngày một bữa (một muỗng cơm cũng kể là một bữa ăn), chỉ giữ ba y (rách nát mới tìm cái mới, không dự trữ y dư), chỉ sống chỗ không mái che, chỉ mặc y may từ vải lượm…

Sabbe āraññikātiādīsu dhutaṅgasamādānavasena tesaṃ āraññikādibhāvo veditabbo. Sabbe sasaṃyojanāti sabbe sabandhanā, keci sotāpannā, keci sakadāgāmino, keci anāgāmino. Tesu hi puthujjano vā khīṇāsavo vā natthi. Tất cả các vị trì hạnh đầu đà như hạnh ẩn lâm chẳng hạn, còn kiết sử, tâm còn trói buộc bởi vì có một số vị trong đó đã đắc quả Tu-đà-hoàn, Dự lưu rồi, một số vị đã đắc Tư-đà-hàm rồi, một số vị đắc A-na-hàm rồi. Trong số đó không hề có phàm phu hay là La-Hán.

Khi Đức Phật nhìn thấy các vị này, Ngài suy nghĩ nên nói điều gì để họ đi hết đoạn đường còn lại. Sau khi xét căn cơ các vị này, Ngài chọn đề tài là sự vô thỉ luân hồi. Ngoại trừ Đức Phật ra, người nói pháp thông thường thường nói điều mình muốn nói. Riêng Đức Phật thì Ngài nói điều người ta cần được nghe. Tôi cho rằng bí quyết hôn nhân, bí quyết gìn giữ tình bạn cũng vậy, xưa giờ mình chỉ quen nói những điều mình muốn nói, mình bắt người thân mình nghe điều mình muốn nói, trong khi đó họ muốn nghe điều họ cần được nghe. Đó là bí quyết sống ở đời. Tại sao gia đình là địa ngục? Bởi những thành viên trong đó phát biểu toàn điều mình muốn nói. Muốn gia đạo thành công, phải làm ngược lại, nói những điều người kia cần nghe, muốn nghe.

Ngài dạy: Các vị hãy nhớ máu của mình đổ ra trong dòng luân hồi lúc mình làm người làm thú, nhiều hơn nước trong bốn biển. Kinh này Đức Phật chỉ nói về máu.

Tại sao mình phải gặp một người như Đức Phật? Tại vì ngoài chuyện Ngài hiểu mình muốn nghe cái gì, mình cần nghe cái gì, còn có một điều nữa là gương mặt, âm thanh của Đức Phật và từ trường từ Ngài tỏa ra. Có những người khi mình nhìn họ, mình thấy danh lợi quan trọng, mình phải phấn đấu, cạnh tranh, hơn thua; nhưng có những người khi nhìn họ, mình thấy toan tính của mình chỉ là trò hề, cuộc chơi của trẻ con. Tôi không được gặp thánh nhưng tôi có may mắn trong đời gặp được những người như tôi vừa kể. Có người tôi gặp họ tôi thấy tôi giống như người đời, nhưng có những người tôi gặp họ, nhiều khi trong số đó có cư sĩ, nhìn họ tôi thấy mình lâu nay rất dễ duôi, có những người, nhìn họ tôi thấy mình quá sức ngon lành. 

Ở đây cũng vậy, bối cảnh có thánh chúng vây quanh, âm thanh, gương mặt và từ trường của Ngài lan tỏa rất quan trọng. Đức Phật có hai cách giáo hóa chúng sinh: ngôn giáo và thân giáo. Phải tu hành nhiều kiếp mới gặp người có thân giáo. Họ không nói gì hết, mình chỉ nhìn họ đi đứng nằm ngồi, chỉ nhìn ánh mắt, nụ cười, ngồi bên họ thôi là mình đã thấy thay đổi rồi. Tôi từng tiếp xúc với vài vị từng gặp ngài Narada, các vị đó kể rằng, dù họ có hiểu hay không hiểu tiếng Anh, khi ngồi gần ngài Narada họ nghe cảm giác mát mẻ an lạc không tưởng được. Họ thấy mọi sự trên đời này rất đơn giản, cho dù họ có lăn đùng ra chết họ cũng không thấy gì sợ hãi miễn là có ngài ngồi đó. Tôi được tận mắt nhìn người kể chuyện đó, tận tai tôi nghe họ, và tôi có thể lấy tay chạm vào nhân chứng sống. 

Có người họ kể là ngài Hộ Tông. Lạ lắm, trước mặt vị này họ có lăn ra chết cũng không sợ. Tôi nghe tôi thấy rất là vui, vì trên đời này thánh là có thật. Hai vị ấy dù là còn phàm mà còn có từ trường như vậy huống hồ gì là ngài Ānanda, là Đức Phật. Chuyện mình tu học, ngoài chuyện an lạc cho mình, còn là sự an lạc cho người khác nữa, làm sao mà người ta nghe mình nói, ngồi gần mình, nhìn mặt mình, người ta thấy ra sự thay đổi lớn trong tâm hồn thì đó là sự lợi tha rất lớn. Ở đây Ngài chỉ nói chuyện máu mà người ta đã giải thoát rồi.

MẸ – CHA – ANH – CHỊ – CON TRAI – CON GÁI

Một loạt kinh tiếp theo là nói về các quan hệ gia đình. Ngài dạy rằng không dễ gì tìm thấy được ai đó chưa từng là thân thuộc của mình trong quá khứ.

‘cakkavāḷā’: vũ trụ (universe) gồm có mặt trăng, mặt trời, Saturn (Thổ tinh), Mars (Hỏa tinh), Venus (Kim Tinh) tức là thái dương hệ gồm các ngôi sao trong đó. Cứ một galaxy system như vậy làm thành một cakkavāḷā. Có vô số galaxy như vậy.

“Imamhā cakkavāḷā sattā paracakkavāḷaṃ, paracakkavāḷā ca imaṃ cakkavāḷaṃ saṃsaranti”: Từ vũ trụ này đầu thai qua vũ trụ khác, từ vũ trụ khác trở qua vũ trụ a,b, c, d, đi tới đi lui như vậy, lớn vô cùng. Trong vô số galaxy như vậy đó mà tìm được người chưa từng là cha mẹ anh em của mình không phải là dễ. Mênh mông như vậy mà mình đã đi không biết là bao nhiêu kiếp. Trong thời gian đó vui ít khổ nhiều. Vì sao vậy? Vì Dục giới là đơn vị gốc của Tam giới. Mỗi galaxy như vậy có đủ 31 cõi. Trong 31 cõi chia thành ba phần: Dục, Sắc, Vô sắc thì cõi Dục là gốc. Cõi khổ là gốc của Dục giới. Trong cõi Dục, 4 cõi khổ là gốc. 12 bất thiện là gốc của cõi khổ. Ở mỗi người chúng ta lúc nào đi nữa phần thiện cũng yếu hơn bất thiện. Lâu lắm mới có một người thiện ngang với ác. Thiện nhiều hơn ác càng hiếm hoi hơn nữa. Trên đời có ba hạng người: thiện ít hơn ác, ác ít hơn thiện, thiện ác bằng nhau. Không thiện không ác là vị La-Hán, hiếm nhất.

Tăng Chi Bộ kinh ghi rằng, trong các loài chúng sinh nói chung, loài thấp sinh nhiều nhất. Trong các loài chúng sinh, bàng sinh là nhiều nhất.

Người không giới, không thí nhiều hơn người có giới, có thí. Người phàm có tu tập đông hơn Sơ quả. Sơ quả đông hơn Nhị quả. Nhị quả đông hơn Tam quả. Tam quả đông hơn Tứ quả. Tứ quả không gì đặc biệt đông hơn Tứ quả có khả năng khác thường (trí tuệ, thần thông, biện tài, thuyết pháp, trí nhớ…). Đại thinh văn có 47 nhưng Chí thượng Thinh văn chỉ có 2. Hiếm nhất vẫn là chư Phật Toàn Giác.

Tóm lại, khó tìm người nào chưa từng là con trai của mình, con gái của mình, cha mình, mẹ mình, anh mình, chị mình, không phải chỉ trong hành tinh này mà còn bao gồm vô số thế giới khác. Trong suốt thời gian đó luôn luôn là vui ít khổ nhiều vì một lý do cực kỳ đơn giản đó là bản chất bất thiện của mình luôn nhiều hơn thiện. Kẻ nào không tin thì làm ơn ngồi yên lại nhìn xem mình từ sáng thức dậy cho tới lúc vào giường ngủ thì cái suy nghĩ tốt đẹp với suy nghĩ tào lao cái nào nhiều hơn.

VEPULLA

Chiều cao của núi non trên mặt đất này không phải là cố định như nhiều người nghĩ. Có những ngọn núi theo năm tháng vì lý do địa chất nào đó mà càng lúc càng thấp dần, nhưng cũng có những ngọn núi lớn dần theo thời gian. Người ta nói Everest đang cao thêm. Tên gọi của các ngọn núi cũng theo năm tháng mà thay đổi. Đỉnh Everest là tên của người đầu tiên leo lên đó, trước đây không phải tên đó. Các dân tộc trong Ấn Độ gọi Everest bằng những cái tên khác nhau, kể từ khi có người Tây phương leo lên đầu tiên, ngọn núi này mang tên Everest.

Đức Phật dạy rằng núi Vepulla ở thành Vương Xá này theo năm tháng đổi tên nhiều lần và chiều cao cũng thay đổi. Núi này ngày xưa rất lớn, người ta phải mất bốn ngày mới lên tới đỉnh. Bài kinh trước nói rằng, khoảng cách giữa hai vị Phật lâu đến mức đủ cho trái đất này dày thêm một do tuần, nhưng bài kinh này thì ngược lại, có một số chỗ mòn đi, giảm bớt.

“cattālīsavassasahassāyukakāle nibbatto āyuppamāṇaṃ pañca koṭṭhāse katvā cattāro ṭhatvā pañcame vijjamāneyeva parinibbuto. Taṃ āyu parihāyamānaṃ dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkheyyaṃ hutvā tato parihāyamānaṃ tiṃsavassasahassāyukakāle ṭhitaṃ, tadā koṇāgamano nibbatto. Tasmimpi tatheva parinibbute taṃ āyu dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkheyyaṃ hutvā parihāyitvā vīsavassasahassakāle ṭhitaṃ, tadā kassapo bhagavā nibbatto. Tasmimpi tatheva parinibbute taṃ āyu dasavassakālaṃ patvā puna vaḍḍhamānaṃ asaṅkheyyaṃ hutvā parihāyitvā vassasatakālaṃ pattaṃ, atha amhākaṃ sammāsambuddho nibbatto.” 

Tuổi thọ của chúng sinh trong trái đất này lúc nhiều lúc ít. Thời đầu tiên chúng sinh sống được bốn chục ngàn tuổi. Chư Phật luôn sống ít hơn chúng sinh đương thời một ít, như Phật Kakusandha (Cù Lưu Tôn) chỉ sống bốn phần năm mức tuổi thọ đương thời (40.000 năm). Các vị Phật khác cũng vậy. Sở dĩ như vậy là để làm chúng sinh kinh cảm. Sau khi Phật Kakusandha viên tịch thì tuổi thọ chúng sinh giảm dần. Mỗi trăm năm giảm một tuổi. Cứ như vậy đến lúc nhân loại chỉ còn mười tuổi, cao dưới 1 feet, năm tuổi đã có gia đình, sinh hoạt như loài thú. Có một số người nhận ra nếp sống thấp kém của loài người lúc đó nên bắt đầu giữ giới sát sinh, không giết, không trộm, không quan hệ bừa bãi, không nói dối, không say sưa. Nhờ vậy tuổi thọ tăng dần đến a-tăng-kỳ tuổi (asankheyya: 10140).

Từ mức tuổi này lại giảm dần xuống còn ba mươi ngàn tuổi thì lúc đó Phật Konagamana (Câu Na Hàm Mâu Ni) ra đời. Sau khi Đức Phật viên tịch thì tuổi thọ của chúng sinh lại giảm rồi tăng theo cách cũ.

Từ mức cao nhất giảm xuống còn hai mươi ngàn tuổi thì Phật Ca Diếp (Kassapa) ra đời. Sau khi Phật Ca Diếp viên tịch, tuổi thọ chúng sinh lại giảm rồi tăng theo cách cũ, sau đó giảm xuống đến mức 100 tuổi thì Phật Thích Ca ra đời. Từ đó đến nay mọi sự diễn ra như ta thấy.
_____________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t...

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại...

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,...

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta ...

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tăng Chi Bộ - Tại sao nhớ, tại sao quên

(III) (193) Bà-La-Môn Sangarava 1. Rồi Bà-la-môn Sangàrava đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Sangàrava thưa với Thế Tôn: 2. - Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, có khi các chú thuật học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại không thể nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật không được học thuộc lòng? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, có khi các chú thuật không học thuộc lòng lâu ngày (đọc tụng) lại nhớ lên được, còn nói gì các chú thuật đã được học thuộc lòng!