Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 1 - Tương Ưng Nhân Duyên (18)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 1 - Tương Ưng Nhân Duyên (18)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 2
[12] Chương I: Tương Ưng Nhân Duyên (c)
VII. Ðại Phẩm Thứ Bảy

V. Thành Ấp (Tạp 12.5, Ðại 2,80b) (Tăng 384, Ðại 2) (S.ii,104)

1) ...Tại Sàvatthi.

2) -- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Thật sự thế giới này bị hãm trong khổ não, bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt, và bị tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết xuất ly khỏi già và chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi nào được biết đến xuất ly khỏi già và chết".

3) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: " Do cái gì có mặt, già chết hiện hữu? Do cái gì, già chết sanh khởi?"

4) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do sanh có mặt nên già chết hiện hữu. Do duyên sanh, nên già chết sanh khởi".

5) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, hữu hiện hữu? Thủ hiện hữu ? Ái hiện hữu ? Thọ hiện hữu? Xúc hiện hữu? Sáu xứ hiện hữu? Danh sắc hiện hữu? Do duyên cái gì, danh sắc sanh khởi?"

6) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thức có mặt nên danh sắc hiện hữu. Do duyên thức nên danh sắc sanh khởi".

7) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thức hiện hữu. Do duyên cái gì, thức sanh khởi?"

8) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau : "Do danh sắc có mặt nên thức hiện hữu. Do duyên danh sắc nên thức sanh khởi".

9) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Thức này trở lui, không đi xa hơn danh sắc. Xa đến như vậy, chúng ta bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt, bị tái sanh, nghĩa là do duyên danh sắc, thức sanh khởi. Do duyên thức, danh sắc sanh khởi. Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi. Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi..". Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.

10) "Tập khởi, tập khởi". Này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.

11) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu? Do cái gì diệt, già chết diệt?"

12) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do sanh không có mặt, nên già chết không hiện hữu. Do sanh diệt, nên già chết diệt".

13) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: " Do cái gì không có mặt, sanh không hiện hữu? Hữu không hiện hữu? Thủ không hiện hữu? Ái không hiện hữu? Thọ không hiện hữu? Xúc không hiện hữu? Sáu xứ không hiện hữu? Danh sắc không hiện hữu? Do cái gì diệt, danh sắc diệt?"

14) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thức không có mặt, danh sắc không hiện hữu. Do thức diệt nên danh sắc diệt".

15) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt, thức không hiện hữu? Do cái gì diệt, nên thức diệt ?"

16) Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi Ta như lý tư duy, nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do danh sắc không có mặt, thức không hiện hữu. Do danh sắc diệt nên thức diệt".

17) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Ta đã chứng đắc con đường này đưa đến giác ngộ, tức là do danh sắc diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. ..(như trên)...Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt".

18) "Ðoạn diệt, đoạn diệt". Này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

19) Ví như, này các Tỷ-kheo, một người khi đi qua một khu rừng, một chặng núi, thấy được một con đường cũ, một đạo lộ cũ do những người xưa đã từng đi qua. Người ấy đi theo con đường ấy, trong khi đi theo con đường ấy, người ấy thấy được một cổ thành, một cố đô do người xưa ở, với đầy đủ vườn tược, đầy đủ rừng cây, đầy đủ hồ ao với thành lũy đẹp đẽ.

20) Rồi này các Tỷ-kheo, người ấy báo cáo với vua hay vị đại thần: "Chư tôn hãy biết, trong khi đi ngang một khu rừng, một chặng núi, tôi thấy được một con đường cũ, một đạo lộ cũ do những người xưa đã từng đi qua. Tôi đã đi theo con đường ấy và thấy được một cổ thành, một cố đô do người xưa ở, với đầy đủ vườn tược, đầy đủ rừng cây, đầy đủ hồ ao, với thành lũy đẹp đẽ. Thưa các Tôn giả, hãy xây dựng lại ngôi thành ấy".

21) Rồi này các Tỷ-kheo, vị vua hay vị đại thần cho xây dựng lại ngôi thành ấy. Và ngôi thành ấy, sau một thời gian lớn lên và trở thành một thành phố phồn vinh, thịnh vượng, đông đúc, tràn đầy người ở.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta đã thấy một con đường cũ, một đạo lộ cũ do các vị Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua.

22) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường cũ, đạo lộ cũ ấy do các vị Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua? Ðây chính là con đường Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến... chánh định. Con đường ấy, này các Tỷ-kheo, là con đường cũ, đạo lộ cũ do các bậc Chánh Ðẳng Giác thuở xưa đã đi qua. Ta đã đi theo con đường ấy. Ði theo con đường ấy, Ta thấy rõ già chết; Ta thấy rõ già, chết tập khởi; Ta thấy rõ già chết đoạn diệt; Ta thấy rõ con đường đưa đến già chết đoạn diệt.

23-31) Ta đã đi theo con đường ấy. Ði theo con đường ấy; Ta thấy rõ sanh... Ta thấy rõ hữu... Ta thấy rõ thủ... Ta thấy rõ ái... Ta thấy rõ thọ... Ta thấy rõ xúc... Ta thấy rõ sáu xứ... Ta thấy rõ danh sắc... Ta thấy rõ thức...

32) Ta đi theo con đường ấy. Ði theo con đường ấy, Ta thấy rõ các hành; Ta thấy rõ các hành tập khởi; Ta thấy rõ các hành đoạn diệt, Ta thấy rõ con đường đưa đến các hành đoạn diệt.

33) Cái được Ta biết rõ, Ta đã tuyên bố cho các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ được biết. Này các Tỷ-kheo, tức là Phạm hạnh này, phồn vinh, thịnh vượng, quảng đại, chúng đa, người nhiều và được chư Thiên, loài Người khéo léo trình bày.

VI. Xúc Chạm, Biết Rõ (Tạp 12.9, Xúc Pháp. Ðại 2.82a) (S.ii,107)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Kuru, tại thị trấn dân chúng Kuru tên là Kammàsadhamma.

2) Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: -- "Này các Tỷ-kheo". -- "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

3) Thế Tôn nói như sau:

-- Này các Tỷ-kheo, các Ông có nắm giữ với nội xúc hay không?

4) Ðược nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, con có nắm giữ, với nội xúc.

5) -- Này các Tỷ-kheo, nhưng Ông nắm giữ nội xúc như thế nào?

6) Tỷ-kheo ấy trả lời. Với câu trả lời, Tỷ-kheo ấy không làm tâm Thế Tôn thỏa mãn.

7) Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời. Bạch Thiện Thệ, nay đã đến thời Thế Tôn nói về nội xúc. Sau khi nghe, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.

8) -- Vậy này Ananda, hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ nói.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

9) Thế Tôn nói như sau:

-- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong khi nắm giữ nội xúc, nắm giữ nội xúc như sau: "Sự đau khổ đa loại, đa dạng này khởi lên ở đời với già chết; sự đau khổ này lấy cái gì làm nhân, hay lấy cái gì làm tập khởi, lấy cái gì làm tác sanh, lấy cái gì làm hiện hữu? Cái gì có mặt, già chết hiện hữu? Cái gì không có mặt, già chết không hiện hữu?". Vị ấy nắm giữ nội xúc, biết như sau: "Sự đau khổ đa loại, đa dạng này khởi lên ở đời với già chết. Sự đau khổ này lấy sanh y làm nhân, lấy sanh y làm tập khởi, lấy sanh y làm tác sanh, lấy sanh y làm hiện hữu. Do sanh y có mặt, già chết hiện hữu. Do sanh y không có mặt, già chết không hiện hữu". Vị ấy biết già chết. Vị ấy biết già chết tập khởi. Vị ấy biết già chết đoạn diệt. Vị ấy biết con đường thích ứng đưa đến già chết đoạn diệt. Và nhờ thực hành như vậy, vị ấy trở thành một vị tùy pháp hành.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đã thực hành để diệt tận khổ đau, để đoạn diệt già chết một cách hoàn toàn.

10) Vị ấy lại nắm giữ thêm nội xúc và nắm giữ như sau: "Sanh y này lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm tác sanh, lấy gì làm hiện hữu? Cái gì có mặt, sanh y hiện hữu? Cái gì không có mặt, sanh y không hiện hữu?". Vị ấy nắm giữ nội xúc, biết được như sau: "Sanh y lấy ái làm nhân, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm tác sanh, lấy ái làm hiện hữu. Do ái có mặt, sanh y hiện hữu. Do ái không có mặt, sanh y không hiện hữu". Vị ấy biết sanh y, biết sanh y tập khởi, biết sanh y đoạn diệt, và biết con đường thích ứng đưa đến sanh y đoạn diệt. Do thực hành như vậy, vị ấy được gọi là tùy pháp hành.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đã chơn chánh thực hành để tận diệt đau khổ và đoạn diệt sanh y một cách hoàn toàn.

11) Vị ấy lại nắm giữ thêm nội xúc và nắm giữ như sau: "Nhưng ái này, khởi lên tại chỗ nào được khởi lên, an trú tại chỗ nào được an trú?". Vị ấy nắm giữ nội xúc, biết được như sau: "Tất cả những gì ở đời khả ái, hấp dẫn, khởi lên; tại chỗ ấy, ái được sanh khởi; tại chỗ ấy, ái được an trú. Và cái gì ở đời khả ái, hấp dẫn? Con mắt ở đời là khả ái, hấp dẫn khởi lên; tại chỗ ấy, ái được sanh khởi; tại chỗ ấy ái được an trú".

12) ... Lỗ tai ở đời là khả ái, hấp dẫn...

13) ... Lỗ mũi ở đời là khả ái, hấp dẫn...

14) ... Lưỡi ở đời là khả ái, hấp dẫn...

15) ... Thân ở đời là khả ái, hấp dẫn...

16) ... Ý ở đời là khả ái, hấp dẫn khởi lên; tại chỗ ấy, ái được sanh khởi; tại chỗ ấy, ái được an trú.

17) Này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ, là Sa-môn hay Bà-la-môn, thấy những gì ở đời khả ái, hấp dẫn là thường còn, thấy là lạc, thấy là vô bệnh, thấy là an ổn, thấy là tự ngã, những người ấy làm ái tăng trưởng.

18) Những ai làm ái tăng trưởng, những người ấy làm sanh y tăng trưởng. Những ai làm sanh y tăng trưởng, những người ấy làm đau khổ tăng trưởng. Những ai làm đau khổ tăng trưởng, những người ấy không thể giải thoát sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng họ không thể giải thoát khỏi đau khổ.

19) Này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai là Sa-môn hay Bà-la-môn thấy những gì ở đời khả ái, hấp dẫn là thường còn, thấy là lạc, thấy là tự ngã, thấy là vô bệnh, thấy là an ổn, những người ấy sẽ làm ái tăng trưởng.

20) Những ai làm ái tăng trưởng, những người ấy sẽ làm sanh y tăng trưởng. Những ai làm sanh y tăng trưởng, những người ấy sẽ làm đau khổ tăng trưởng. Những ai làm đau khổ tăng trưởng, những người ấy không thể giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói họ không có thể giải thoát khỏi đau khổ.

21) Này các Tỷ-kheo, những ai trong hiện tại là Sa-môn hay Bà-la-môn thấy những gì ở đời khả ái, hấp dẫn là thường còn, thấy là lạc, thấy là tự ngã, thấy là vô bệnh, thấy là an ổn, những người ấy làm ái tăng trưởng.

22) Những ai làm ái tăng trưởng, những người ấy làm sanh y tăng trưởng. Những ai làm sanh y tăng trưởng, những người ấy làm đau khổ tăng trưởng. Những ai làm đau khổ tăng trưởng, những người ấy không thể giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng họ không thể giải thoát khỏi đau khổ.

23) Này các Tỷ-kheo, ví như một bình bằng đồng, đựng nước uống có sắc, có hương, có vị và nước uống ấy có pha thuốc độc. Rồi một người đi đến, bị nóng bức bách, bị nóng áp đảo, mệt mỏi, run rẩy, khát nước và có những người nói với người ấy như sau: "Này Bạn, bình đồng đựng nước uống này, có sắc, có hương, có vị, và bình nước uống ấy có pha thuốc độc. Nếu Bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, Bạn sẽ được thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, do nhân duyên ấy, Bạn có thể đi đến chết, hay đau khổ gần như chết". Người kia có thể uống bình nước bằng đồng ấy một cách hấp tấp không suy nghĩ, không từ bỏ. Người kia do nhân duyên ấy, có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết.

24) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ, là Sa-môn hay Bà-la-môn, phàm vật gì khả ái hấp dẫn ở đời...

25) ... Những ai trong tương lai...

26) Này các Tỷ-kheo, những ai trong hiện tại là Sa-môn hay Bà-la-môn, thấy những gì ở đời khả ái, hấp dẫn là thường còn, thấy là lạc, thấy là tự ngã, thấy là vô bệnh, thấy là an ổn, những người ấy làm ái tăng trưởng.

27) Những ai làm ái tăng trưởng, những người ấy làm sanh y tăng trưởng. Những ai làm sanh y tăng trưởng, những người ấy làm đau khổ tăng trưởng. Những ai làm đau khổ tăng trưởng, những người ấy không thể giải thoát khỏi sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói họ không thể giải thoát khỏi đau khổ.

28) Và này các Tỷ-kheo, những ai trong quá khứ là Sa-môn hay Bà-la-môn thấy những gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là khổ, thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, những người ấy từ bỏ ái.

Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y. Những ai từ bỏ sanh y, những người ấy từ bỏ đau khổ. Những ai từ bỏ đau khổ, những người ấy đã được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng họ đã giải thoát khỏi đau khổ.

29) Và này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai là Sa-môn hay Bà-la-môn, thấy những gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là khổ, thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, những người ấy sẽ từ bỏ ái.

30) Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y... Ta nói họ có thể giải thoát khỏi đau khổ.

31) Còn những ai, này các Tỷ-kheo, trong hiện tại là Sa-môn hay Bà-la-môn, thấy những gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là khổ, thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, họ từ bỏ ái.

32) Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y. Những ai từ bỏ sanh y, những người ấy từ bỏ đau khổ. Những ai từ bỏ đau khổ, những người ấy sẽ giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói họ sẽ giải thoát khỏi đau khổ.

33) Ví như, này các Tỷ-kheo, một bình nước bằng đồng có sắc, có hương, có vị, nhưng bị pha thuốc độc. Rồi có người đi đến, bị nóng bức bách, bị nóng áp đảo, mệt mỏi, run rẩy, khát nước. Có những người nói với người ấy : "Này Bạn, bình nước bằng đồng này có sắc, có hương, có vị, nhưng bình nước uống ấy bị pha thuốc độc. Nếu Bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, Bạn sẽ thích thú về sắc, về hương, về vị. Sau khi uống, do nhân duyên ấy Bạn có thể đi đến chết, hay đau khổ gần như chết".

34) Và này các Tỷ-kheo, người ấy có thể suy nghĩ như sau: "Ở đây, ta có thể nhiếp phục khát nước này với uống rượu, hay nhiếp phục với ăn sữa đông (sanh tô), hay nhiếp phục với ngậm muối, hay nhiếp phục với cháo chua. Nhưng ta không có thể uống thứ này, nó khiến ta phải bất hạnh, đau khổ lâu dài". Người ấy sau khi suy nghĩ, không uống và từ bỏ thứ nước uống ấy. Do nhân duyên này, người ấy không đi đến chết, hay sự đau khổ gần như chết.

35) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những ai trong thời quá khứ là Sa-môn hay Bà-la-môn, thấy những gì khả ái hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là đau khổ, thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, họ đoạn trừ ái.

36) Những ai đoạn trừ ái, những người ấy đoạn trừ sanh y. Những ai đoạn trừ sanh y, những người ấy đoạn trừ đau khổ. Những ai đoạn trừ đau khổ, những người ấy được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói họ được giải thoát khỏi đau khổ.

37-38) Này các Tỷ-kheo, những ai trong tương lai...

39) Những ai trong thời hiện tại là Sa-môn hay Bà-la-môn, thấy những gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là khổ, thấy là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, họ từ bỏ ái.

40) Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y. Những ai từ bỏ sanh y, những người ấy từ bỏ đau khổ. Những ai từ bỏ đau khổ, những người ấy được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng họ được giải thoát khỏi đau khổ.

VII. Bó Lau (Tạp 12.6 Lô, Ðại 2,81a) (S.ii,112)

1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Mahàkotthita trú ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isipatana (chư Tiên đọa xứ) ở Migàdàya (rừng nai).

2) Rồi Tôn giả Mahàkotthita, vào buổi chiều từ chỗ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, bèn ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, Tôn giả Mahàkotthita nói với Tôn giả Sàriputta:

-- Này Hiền giả Sàriputta, già chết do tự mình tạo ra, già chết do người khác tạo ra, già chết do tự mình và do người khác tạo ra, hay già chết không do tự mình tạo ra, không do người khác tạo ra, do tự nhiên sanh?

4) -- Này Hiền giả Kotthita, già chết không do tự mình tạo ra, già chết không do người khác tạo ra, già chết không do tự mình tạo ra và người khác tạo ra, già chết cũng không phải không do tự mình tạo ra, không do người khác tạo ra, không do tự nhiên sanh. Già chết do duyên sanh.

5) -- Này Hiền giả Sàriputta, có phải sanh do tự mình làm ra, sanh do người khác làm ra, sanh do tự mình làm ra và do người khác làm ra, hay sanh không do tự mình làm ra và không do người khác làm ra, do tự nhiên sanh?

6) -- Này Hiền giả Kotthita, sanh không do tự mình làm ra, sanh không do người khác làm ra, sanh không do tự mình làm ra và người khác làm ra, hay sanh cũng không phải không do tự mình làm ra và không phải không do người khác làm ra, cũng không do tự nhiên sanh. Sanh do duyên hữu.

7-18) -- Này Hiền giả Sàriputta, hữu có phải do tự mình làm ra... thủ có phải do tự mình làm ra... ái có phải do tự mình làm ra... thọ có phải do tự mình làm ra... xúc có phải do tự mình làm ra... sáu xứ có phải do tự mình làm ra...

19) ... Danh sắc có phải do tự mình làm ra, danh sắc có phải do người khác làm ra, danh sắc có phải do tự mình làm ra và do người khác làm ra, hay danh sắc có phải không do tự mình làm ra và không do người khác làm ra, do tự nhiên sanh?

20) -- Này Hiền giả Kotthita, danh sắc không phải do tự mình làm ra, danh sắc không phải do người khác làm ra, danh sắc không phải do tự mình làm ra và do người khác làm ra, hay danh sắc cũng không phải không do tự mình làm ra và không phải không do người khác làm ra, không do tự nhiên sanh. Danh sắc do duyên thức.

21) -- Này Hiền giả Sàriputta, có phải thức do tự mình làm ra, thức do người khác làm ra, thức do tự mình làm ra và do người khác làm ra, hay có phải thức không do tự mình làm ra và không do người khác làm ra, do tự nhiên sanh?

22) -- Này Hiền giả Kotthita, thức không do tự mình làm ra, thức không do người khác làm ra, thức không do tự mình làm ra và không do người khác làm ra, hay thức cũng không phải không do tự mình làm ra và không phải không do người khác làm ra, không do tự nhiên sanh. Thức do duyên danh sắc.

23) -- Nay chúng tôi hiểu lời nói của Hiền giả Sàriputta như sau: "Này Hiền giả Kotthita, danh sắc không do tự mình làm ra, danh sắc không do người khác làm ra, danh sắc không do tự mình làm ra và không do người khác làm ra, danh sắc cũng không phải không do tự mình làm ra và không phải không do người khác làm ra, không do tự nhiên sanh. Danh sắc do duyên thức".

24) Và nay chúng tôi hiểu lời nói của Hiền giả Sàriputta như sau: "Này Hiền giả Kotthita, thức không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, không do tự mình làm ra và người khác làm ra, cũng không phải không do tự mình làm ra và không phải không do người khác làm ra, không do tự nhiên sanh. Thức do duyên danh sắc".

25) Này Hiền giả Sàriputta, cần phải hiểu như thế nào ý nghĩa lời nói này?

-- Vậy này Hiền giả, tôi sẽ nêu một ví dụ. Nhờ có ví dụ, người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.

26) Ví như hai bó lau dựa vào nhau mà đứng. Cũng vậy, này Hiền giả, do duyên danh sắc, thức sanh khởi. Do duyên thức, danh sắc sanh khởi. Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi. Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Này Hiền giả, nếu một bó lau được kéo qua một bên, bó lau kia liền rơi xuống. Nếu bó lau kia được kéo qua một bên, bó lau này được rơi xuống. Cũng vậy, này Hiền giả, do danh sắc diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt... (như trên)... như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.

27) -- Thật vi diệu thay, Hiền giả Sàriputta! Thật hy hữu thay, Hiền giả Sàriputta! Lời nói khéo nói này của Hiền giả Sàriputta và lời nói với ba mươi sáu sự này của Hiền giả Sàriputta, chúng tôi xin tùy hỷ.

28) -- Này Hiền giả, nếu một Tỷ-kheo thuyết pháp để nhàm chán, ly tham, đoạn diệt già chết, thời đủ để được gọi là vị Tỷ-kheo thuyết pháp. Này Hiền giả, nếu một Tỷ-kheo thực hành để nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, già chết, thời đủ để được gọi là Tỷ-kheo tùy pháp hành. Này Hiền giả, nếu một Tỷ-kheo do nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, vô minh được giải thoát, không có chấp thủ, thời đủ để được gọi vị Tỷ-kheo đã đạt được hiện tại Niết-bàn.

VIII. Kosambi (Tạp 14.9, Miệt-sư-la. Ðại 2,98c) (S.ii,115)

1) Một thời Tôn giả Musìla, Tôn giả Sàvittha, Tôn giả Nàrada, Tôn giả Ananda trú ở Kosambi, vườn Ghosità.

I

2) Rồi Tôn giả Sàvittha nói với Tôn giả Musìla:

-- Này Hiền giả Musìla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự hành tướng (àkàraparivitakkà), ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm (ditthinijjhànakhanti), Tôn giả Musìla tự mình có trí biết được: "Do duyên sanh, già chết sanh khởi"?

3) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự hành tướng, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi có biết được, tôi có thấy được: "Do duyên sanh, già chết sanh khởi".

4) -- Này Hiền giả Musìla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musìla tự mình có trí biết được: "Do duyên hữu, nên sanh sinh khởi... (như trên)...

5) ... "Do duyên thủ nên hữu sanh khởi".

6) ... "Do duyên ái nên thủ sanh khởi".

7) ... "Do duyên thọ nên ái sanh khởi".

8) ... "Do duyên xúc nên thọ sanh khởi".

9) ... "Do duyên sáu xứ nên xúc sanh khởi".

10) ... "Do duyên danh sắc nên sáu xứ sanh khởi".

11) ... "Do duyên thức nên danh sắc sanh khởi".

12) ... "Do duyên hành nên thức sanh khởi".

13) ... "Do duyên vô minh nên hành sanh khởi".

14) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết được, tôi thấy được: "Do duyên vô minh, các hành sanh khởi".

15) -- Này Hiền giả Musìla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài sự thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musìla tự mình có trí biết như sau: "Do sanh diệt, nên già chết diệt"?

16) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: "Do sanh diệt, nên già chết diệt".

17) -- Này Hiền giả Musàa, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musìla tự mình có trí biết như sau: "Do hữu diệt, nên sanh diệt".

18-24)... "Do thủ diệt, nên hữu diệt... Do ái diệt, nên thủ diệt... Do thọ diệt, nên ái diệt... Do xúc diệt nên thọ diệt... Do sáu xứ diệt, nên xúc diệt... Do danh sắc diệt, nên sáu xứ diệt... Do thức diệt, nên danh sắc diệt... Do hành diệt, nên thức diệt... Do vô minh diệt, nên hành diệt".

25) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: "Do vô minh diệt, nên hành diệt"

26) -- Này Hiền giả Musìla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musìla tự mình có trí biết như sau: " Do hữu diệt là Niết-bàn"?

27) -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: "Do hữu diệt là Niết-bàn".

28) -- Như vậy, Tôn giả Musìla là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc?.

29) Khi nghe nói vậy, Tôn giả Musìla giữ im lặng.

II

30) Rồi Tôn giả Nàrada nói với Tôn giả Sàvittha:

-- Này Hiền giả Sàvittha, lành thay nếu tôi được hỏi câu này. Hãy hỏi tôi câu hỏi này, và tôi sẽ trả lời cho Hiền giả câu hỏi này.

31) -- Tôn giả Nàrada hãy lấy câu hỏi này. Tôi sẽ hỏi Tôn giả Nàrada câu hỏi này. Và Tôn giả Nàrada hãy trả lời cho tôi câu hỏi này.

32-57)... -- Này Hiền giả Sàvittha, ngoài lòng tin... tôi biết như sau, tôi thấy như sau: "Do hữu diệt là Niết-bàn".

58) -- Như vậy, Tôn giả Nàrada là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc?

59) -- Này Hiền giả, "Do hữu diệt là Niết-bàn", tôi khéo thấy như chơn nhờ chánh trí tuệ. Nhưng tôi không phải là vị A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc.

60) Ví như trên một con đường hoang vắng có một giếng nước. Tại đấy không có dây, không có gàu nước. Rồi có người đi đến, bị nóng bức bách, bị nóng áp đảo, mệt mỏi, run rẩy, khát nước. Người ấy ngó xuống giếng và biết được: "Giếng này có nước", nhưng đứng chịu, thân thể không chạm nước.

61) Cũng vậy, này Hiền giả, "Hữu diệt là Niết-bàn", tôi khéo thấy như chơn nhờ chánh trí tuệ, nhưng tôi không phải là vị A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc.

III

62) Khi được nói vậy, Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Sàvittha:

-- Này Hiền giả Sàvittha, nói như vậy thời Hiền giả nói gì về Tôn giả Nàrada?

63) -- Này Hiền giả Ananda, nói như vậy, tôi không nói gì về Tôn giả Nàrada, ngoài sự tốt lành, ngoài sự tốt đẹp.

IX. Nước Thủy Triều Dâng (S.ii,118)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong vườn ông Anàthapindika.

2) Tại đây...

3) -- Này các Tỷ-kheo, khi nào biển lớn dâng lên thời các sông lớn dâng lên; khi nào các sông lớn dâng lên thời các sông nhỏ dâng lên; khi nào các sông nhỏ dâng lên thời các hồ lớn dâng lên; khi nào các hồ lớn dâng lên thời các hồ nhỏ dâng lên.

4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi nào vô minh dâng lên thời các hành dâng lên; khi nào các hành dâng lên thời thức dâng lên; khi nào thức dâng lên thời danh sắc dâng lên; khi nào danh sắc dâng lên thời sáu xứ dâng lên; khi nào sáu xứ dâng lên thời xúc dâng lên; khi nào xúc dâng lên thời thọ dâng lên; khi nào thọ dâng lên thời ái dâng lên; khi nào ái dâng lên thời thủ dâng lên; khi nào thủ dâng lên thời hữu dâng lên; khi nào hữu dâng lên thời sanh dâng lên; khi nào sanh dâng lên thời già chết dâng lên.

5) Này các Tỷ-kheo, biển lớn không dâng lên thời sông lớn không dâng lên; sông lớn không dâng lên thời sông nhỏ không dâng lên; sông nhỏ không dâng lên thời hồ lớn không dâng lên; hồ lớn không dâng lên thời hồ nhỏ không dâng lên.

6) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vô minh không dâng lên thời các hành không dâng lên; các hành không dâng lên thời thức không dâng lên; thức không dâng lên thời danh sắc không dâng lên; danh sắc không dâng lên thời sáu xứ không dâng lên; sáu xứ không dâng lên thời xúc không dâng lên; xúc không dâng lên thời thọ không dâng lên; thọ không dâng lên thời ái không dâng lên; ái không dâng lên thời thủ không dâng lên; thủ không dâng lên thời hữu không dâng lên; hữu không dâng lên thời sanh không dâng lên; sanh không dâng lên thời già chết không dâng lên.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 2
Chương 1: Tương Ưng Nhân Duyên (c)
Phẩm Đại Phẩm

NỘI XÚC (tt)

Trở lại bài kinh Nội Xúc (Sammasanasutta).

“Antaraṃ sammasanti abbhantaraṃ paccayasammasanaṃ”

Chữ mà HT Minh Châu dịch là ‘nội xúc’ thật ra là “sự quán sát Duyên khởi theo cách giữa chừng”. Chữ ‘nội xúc’ ở đây là “Antaraṃ sammasanti”, tôi nghĩ ở đây có sự nhầm lẫn, bởi vì chữ ‘Sammasana’ có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa là ‘sự sờ chạm’. Nhưng trong chú giải có nói rõ ràng là sự quán sát năm uẩn theo cách giữa chừng. Thông thường thì bắt đầu là vô minh duyên hành, hành duyên thức, nhưng cách này thì không bắt đầu từ vô minh mà từ một chỗ khác, mà bắt đầu từ Ái, bắt đầu từ Xúc, trường hợp đó gọi là “antaraṃ sammasana”. 

Chú giải giải thích thêm, ‘antaraṃ’ở đây là ‘abbhantaraṃ’, nghĩa là ‘bên trong’, ‘giữa chừng’. Từ số 1 đến số 12, bắt đầu từ số 3, số 9 hay 11, gọi là ‘abbhantaraṃ’. Xét theo nguyên lý Duyên khởi, bất cứ chỗ nào trong vòng tròn Duyên khởi cũng có thể là điểm bắt đầu, đối với phàm phu. Người có học A-tỳ-đàm sẽ biết trong vòng tròn đó cái nào là quả, cái nào là nhân. Ví dụ, ngũ song thức là quả, ái là nhân; mắt tai mũi lưỡi không có tội lỗi, chỉ là quả của quá khứ, nhưng đối với phàm phu thì giai đoạn nào cũng có thể là điểm bắt đầu cho Duyên khởi. 

Vị A-la-hán cũng có mắt tai mũi lưỡi nhưng không dùng ngũ căn của đời này để đầu tư thêm cho kiếp sau. Khi mắt mình nhìn cái gì đó mà thích thì chính cái thích này đưa mình trở lại cõi Dục giới, bởi cõi Dục giới có đủ mắt tai mũi lưỡi. Đối với một người sanh trong cõi Dục giới nhưng nhàm chán sắc thanh khí vị xúc, họ lo tu thiền nên sinh được vào cõi Sắc giới và Vô sắc giới. Còn vị A-la-hán, trước khi đắc quả ngài cũng là người ở cõi Dục giới nhưng sau khi đắc quả rồi ngài cũng có mắt tai mũi lưỡi nhưng không thích trong năm dục, và cũng không mê trong thiền, vì vậy ngài không có điều kiện để quay về cõi Dục, và cũng không mê trong mấy tầng thiền nên không có cơ hội quay lại cõi Phạm Thiên. Khi không còn chỗ quay lại thì đi đâu bây giờ? Chỉ còn chỗ vô sanh Niết bàn. 

Mình thì có ba cách: thích hưởng dục thì chết rồi quay trở lại cõi Dục; thích thiền Sắc Ggiới, chứng thiền Sắc giới, chết rồi sanh về cõi Sắc giới, hết tuổi thọ trở xuống cõi Dục. Thiền vô sắc cũng y vậy, nhàm chán Sắc giới, tu thiền Vô sắc, chứng thiền Vô sắc, chết sanh về cõi Vô sắc, hết tuổi thọ quay trở về đơn vị gốc. Cõi Dục là gốc của ba cõi. Cảnh giới đọa xứ (địa ngục, ngạ quỷ, A-tu-la, bàng sanh) là gốc của cõi Dục giới. Tam giới lấy cõi Dục giới làm gốc. Cõi Dục giới lấy bốn cõi khổ làm gốc. 

Chính vì vậy mới có chuyện quán xét Duyên khởi theo kiểu giữa chừng, nhắc cho mình bất cứ chỗ nào trong đời sống phàm phu cũng là chỗ bắt đầu cho dòng sinh tử. Trong bài kinh này Ngài bắt đầu từ chỗ sanh. Trước khi thành Phật Ngài từng quán xét ở đời này có quá nhiều cái khổ, sanh ly tử biệt, mất mát, bệnh hoạn, tai tiếng, muốn không được, thương phải xa, ghét phải gần v.v…, Ngài thấy tất cả những cái khổ này đi ra từ việc mình có mặt trên đời này: “Sự đau khổ đa loại, đa dạng này khởi lên ở đời với già chết. Sự đau khổ này lấy sanh y làm nhân, lấy sanh y làm tập khởi, lấy sanh y làm tác sanh, lấy sanh y làm hiện hữu. Do sanh y có mặt, già chết hiện hữu. Do sanh y không có mặt, già chết không hiện hữu”.

Cái khổ gọn nhất ở đời này là già và chết, còn khổ chi li thì không biết là bao nhiêu. Một người có trí, nhìn người ta đi làm dâu là đã không muốn sanh tử rồi, nhìn cảnh mẹ góa con côi, người già cả neo đơn trời mưa gió lạnh lẽo thế này phải đi buôn bán từng tờ vé số, từng cái bánh gai, bánh cam trên đường là đã không muốn sinh tử. Nhìn một người già trong bệnh viện ho sù sụ không ai thăm nuôi, nhìn những gia tộc giàu sang phú quí nhưng bên trong gia tộc chia năm xẻ bảy tan nát, củi đậu nấu đậu, mình cũng không muốn sinh tử. Một vị trời sung sướng, có đầy đủ mọi thứ, nhưng đứng trước giây phút sợ hãi sắp chết, hào quang mờ đi, hoa tươi trên người héo, nghe người mệt mỏi, cảm thấy chục triệu năm trong đời không có chỗ dựa tinh thần, giờ không biết đi về đâu, chỉ nghĩ vậy mình cũng thấy sợ, cũng không muốn sinh tử. 

Quí vị hãy nhớ câu này: Ai cũng muốn có một hiện tại vui, không ai thích một hiện tại thiện nhưng khi mọi sự đã là quá khứ, thì ai cũng muốn mình có một quá khứ thiện hơn là quá khứ vui. Bởi vì quá khứ thiện sẽ là hành lý để mình cầm đi, quá khứ vui qua rồi thì tẻ nhạt. Tôi có chút điều kiện để gặp gỡ một số người ngày xưa từng hét ra lửa lúc trước 75, giờ thì lớn tuổi rồi, vật đổi sao dời, bây giờ tuy có tuổi già nhàn hạ, nhưng quá khứ đã là quá khứ, chỉ ngồi gặm nhấm dĩ vãng. Nhìn họ tôi nhớ lại những vị Sayadaw bên Miến Điện, tôi nghĩ nếu quá khứ của họ từ đó đến giờ là một Sayadaw thì đỡ biết bao nhiêu. 

Dù trước mắt nhìn đời của một người tu cũng mịt mù mơ hồ quá, ăn rồi ôm chồng lá bối học, đi bát trời mưa lạnh lẽo chân không, gai góc; nhưng vài chục năm sau, khi cả hai vào tuổi chín mươi thì tình hình lại khác. Khi cả hai bước vào giai đoạn cuối của cuộc đời thì mới thấy, giá như sáu mươi năm qua mình là một người tu hơn là sáu mươi năm chăn êm nệm ấm.

Trong bài kinh này khi Đức Phật hỏi chư tăng có biết quán chiếu Duyên khởi theo cách giữa chừng hay không. Chư tăng thỉnh Đức Thế Tôn thuyết. Ngài nói rằng ngày xưa Ngài đã từng quán xét như vậy, Ngài kể kinh nghiệm của Ngài, khi quán xét năm uẩn theo cách nửa chừng, bắt đầu từ lục nhập, từ ái, từ xúc hay từ sanh cũng được. Quán xét mọi khổ trên đời từ sanh, từ sự có mặt. Sự có mặt này ở đâu mà có? Có từ sanh y. Sanh y (upadhi) ở đây chính là năm uẩn. Năm uẩn tức là thân và tâm, nếu kể ra là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Trường hợp nói gọn hơn, năm uẩn cũng là tâm.

Sanh y lấy gì làm gốc? Các khổ lấy năm uẩn làm gốc. Năm uẩn lấy Ái làm gốc. Do có Dục ái mới sanh ra trong cõi Dục giới, có đủ năm uẩn. Do có Ái nên mới sanh ra trong cõi Sắc giới có năm uẩn hoặc một uẩn. Do có Vô sắc ái nên mới sanh ra trong cõi Vô sắc giới, chỉ có bốn uẩn. Rõ ràng là vì có Ái nên mới có năm uẩn.

Ái lấy sáu trần làm gốc. Tu Vipassanā mới thấy rõ điểm này. Nghĩa là toàn bộ đời sống của phàm phu chỉ là quá trình làm việc của sáu căn đối với sáu trần. Khi mình gặp cảnh vừa ý thì thích trực tiếp. Khi gặp cảnh trái ý thì nghĩ đến việc trốn chạy, tránh né, tìm đến cái vừa ý. Đó cũng là một hình thức tham ái.

Khi tu thiền, ngồi lâu quá, mình bị đau nhức, mình mới có ý muốn thay đổi oai nghi. Chuyện mình thích nhìn cái đẹp, nghe cái hay, lưỡi muốn nếm vị ngon, thân muốn xúc chạm cái gì ấm trơn mịn thì khỏi nói, còn đàng này hành giả đang tu thiền, ngồi lâu quá đau nhức muốn đổi tư thế, từ kiết già muốn đổi qua bán già, hoặc muốn duỗi chân, muốn được đứng dậy đi một chút; khi muốn như vậy cũng là Ái. Ái bám mình khít khao không có một kẽ hở mà mình không ngờ. Mình cứ tưởng Ái là cái gì thích cụ thể như trai gái thích nhau, thích tiền, mê nhậu, cái đó thì quá rõ. Có những cái thích nhỏ nhặt bám sát mình trong đời sống đó cũng là ái. Ngồi lâu quá muốn sửa tư thế cũng là Ái, ngứa muốn gãi cũng là Ái, ngứa cổ muốn tằng hắng một cái cũng là Ái. Từ lúc mở mắt cho đến khi đi ngủ, từ lúc lọt lòng đến lúc chui vô quan tài, Ái bám mình suốt, vì vậy Ái được xem là gốc của năm uẩn. 

Chỗ dựa của Ái chính là quá trình tiếp xúc 6 trần của 6 căn. Từ lúc mở mắt là con mắt đã tìm chỗ làm việc rồi. Chỉ có tu thiền Tứ Niệm Xứ mới thấy, bởi vì quí vị đang có vợ, có chồng, có con cái, nhà cửa xe cộ, quí vị không thấy đâu. Phải gác hết, đi vào thiền viện, dự vài khóa, đừng hòng nghĩ đến chuyện ở nhà mà tu hành rốt ráo. Tôi cũng biết chuyện ở chung và ở riêng phức tạp như thế nào, chỉ cần trong nhà có hai người, ba người là có tiếng động, có sự nảy sinh va chạm dù ngọt ngào hay cay đắng. Hễ có va chạm là có mất thời gian. Cứ sống thử một ngày sẽ thấy bài kinh này sâu cỡ nào. Ngài dạy toàn bộ đời sống này chỉ là quá trình làm việc của sáu căn. Trong kinh có ví dụ, con chim có dịp là bay về trời, con cá có dịp thì nhảy xuống nước, chồn cáo thích về hang, con mắt luôn chờ dịp để nhìn, lỗ tai luôn luôn trong tình trạng sẵn sàng lắng nghe. Chỉ có sống chánh niệm mới thấy điều này.

Ở đây Đức Phật dạy, năm dục nói riêng và sáu trần nói chung giống như bình thuốc độc. Một người khát nước, thấy cái bình đó, họ muốn uống. Có người nhắc: đây là bình thuốc độc, uống vô là chết. Quí vị biết rồi, nếu người này vẫn lì lợm mà uống thì sẽ bị như thế nào. Trong chú giải có nói:

Người xuất gia và người cư sĩ nói chung ai cũng có chỗ dựa hết. Người xuất gia thì có nhiều thầy, một là ‘upajjhāya’ là vị hòa thượng cho mình đắp y thọ trì giới cho mình, hai là ‘ācariya’, người dạy giáo lý, kiến thức cho mình, thứ ba là ‘nissāyacarya’ là vị cho mình nương tựa. Ít nhất là ba thầy, còn người dạy học cho mình A-xà-lê thì có khi là 8 vị hay 15 vị chứ không phải là một. Chẳng hạn như ngài Jotika bên Miến Điện có tám vị thầy, ngài học Luật, học Tạng kinh, học A-tỳ-đàm, học thiền Quán, học thiền Chỉ… với từng thầy khác nhau.

‘kalyāṇamitto’: thiện hữu, bạn lành.

‘ācariyupajjhāyādiko kalyāṇamitto’: thầy và bạn

‘ādīnavañca ārocento’ nói cho biết sự nguy hiểm

Họ nói cho mình biết sự nguy hiểm nhưng nếu mình không nghe thì… thôi. Dễ duôi thì ai cũng dễ duôi nhưng người có nhớ chừng thì vẫn tốt hơn người quên bẵng. Nếu mình nhớ luôn khi thì quá tốt, tối thiểu cũng phải nhớ chừng. Trước khi bỏ được năm dục sắc, thinh, khí, vị, xúc thì làm ơn có những tâm niệm để chuyện từ bỏ dễ dàng hơn. Ví dụ trong chuyện ăn uống, khi mình no thì nên suy nghĩ nhiều về thực phẩm để thấy chuyện ăn uống là chuyện như thế nào; khi mình bệnh hoạn khó chịu, tranh thủ lúc đó nghĩ về năm dục, sẽ thấy năm dục đúng là trò hề, phù phiếm và rỗng tuếch. Cũng cơ thể mấy chục ký lô này mà lúc bình thường thì thích đi du lịch, giao du gặp gỡ, nhưng lúc bịnh rồi thì cả rổ hột xoàn cũng không thèm ngó. Không cần phải quằn quại trên giường chết, chỉ cần đi tiêu chảy khoảng chừng bốn năm lần, con mắt thụt vô, đầu gối lỏng ra thì mình thấy rằng thì ra chuyện mình sở hữu cái này cái kia, mang mặc trang sức cái này cái nọ vô cùng phù phiếm vô duyên. 

Không có gì khổ cho bằng trên đời này lúc nào mình cũng dựng ra những nhu cầu, mà nhu cầu đó do chính mình nghĩ ra. Đi làm khổ như điên, bóp đầm xách tay loại gì chẳng được, vậy mà phải ráng dành tiền mua cho được đồ thời trang đắt tiền. Giày dép thì cái gì tiện dụng vừa chân là được rồi, vậy mà bỏ số tiền rất lớn ra mua đôi giày để hy vọng người ta sẽ trầm trồ ghen tị. Mắt kiếng, đồng hồ cũng vậy, phải mua loại nào cho người ta trầm trồ ghen tị. Tôi nói quí vị đừng có buồn, bữa nào quí vị lén lén mang kiếng đen đi, nhìn kỹ xem có ai nhìn mình không, chẳng ma nào ngó đâu. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Mang kiếng đen để dễ quan sát. Tin tôi đi, trên đời này có hai trường hợp người ta nhìn mình thôi, một là mình quá quái dị, hai là mình là VIP, quá nổi tiếng đi. Mình không phải là VIP, vậy là mình lọt vào hạng quá sức quái dị thì người ta mới để mắt nhìn. Nếu mình không phải là một trong hai hạng này thì không ai nhìn đâu. 

Khổ nhứt là lúc nào mình cũng nghĩ đến người khác để ăn mặc. Đồng ý là bê bối quá thì không nên, nhưng không gì bậy cho bằng đua đòi. Không có gì bậy cho bằng ăn mặc để cho người ta ngắm. Mình là cái gì, mình cày như con trâu để ăn mặc cho người ta ngắm, mà người ta là ai, không có người ta nào hết. Bản chất của năm dục là rỗng tuếch, cái mình thấy đẹp là dựa vào nhiều điều kiện, điều kiện tri thức, điều kiện sức khỏe. Nghe hay cũng vậy, có lúc mình khoái tân nhạc, có lúc mình khoái cải lương, có lúc khoái jazz, có lúc thích nghe guitar classic, không phải lúc nào cũng vậy. Mùi cũng vậy, vị cũng vậy, cũng có khi có thì, không phải mình thích một thứ suốt đời. Một là chán nó, hai là không điều kiện hưởng thụ nó, ba là để kiếm được nó mình phải hy sinh cả cuộc đời. Không đáng! Năm dục bản thân nó không có giá trị hằng hữu, không phải bất biến, nó thay đổi theo nơi chốn và thời gian.

Đức Phật dạy, những ai trong đời quá khứ, hiện tại, tương lai, đối diện với sáu trần bằng niềm đam mê thì những người đó không thoát khỏi khổ đau, còn đắm đuối đam mê chìm sâu gắm chặt trong sáu trần thì không thể thoát khổ đau. Vì toàn bộ cuộc sinh tử của mình chỉ là quá trình làm việc của sáu căn đối với sáu trần. Cứ như vậy mà đi từ đời này sang kiếp khác.

Quán Duyên khởi giữa chừng là tự mình nhìn thẳng vô đời sống của mình để thấy tất cả những cái khổ ở đời có từ năm uẩn, năm uẩn từ đâu mà có, ái này từ đâu ra, từ đam mê trong 6 trần, từ đam mê này mới mở ra con đường sinh tử trước mặt. “Ngày nào đó có thời giờ, nên dành ra để tu thiền”. Đây là một trong những câu nói ngu nhất trên thế giới mà con người có thể nghĩ ra, bởi chuyện tu thiền không thể nào nói “một ngày nào đó” được. Cũng như không thể nói, một ngày nào đó có thời gian thì uống thuốc chăm sóc sức khỏe cho mình đang bị ung thư. Chuyện tu học cũng y như vậy, phải nói “ngay bây giờ” chứ không nên nói “một ngày nào đó”. Tôi bây giờ, bụng càng lúc càng to, chân càng lúc càng nhỏ lại, bắt đầu tôi đã thấy dấu hiệu, nhìn mình mà thấy lạnh xương sống. Hồi xưa ở VN tôi có nhìn thấy quyển 24 loại ngạ quỷ của ngài Bửu Chơn, theo mô tả trong kinh, tôi nhìn thấy người gì mà xấu dữ dằn, giờ thì tôi cũng y vậy chỉ là chưa có lông lá như ngạ quỷ, làm biếng vận động nên thành ra như vậy. Nhìn mình là biết mình gần đi rồi.

BÓ LAU (Naḷakalāpīsutta)

Nếu quí vị có học A-tỳ-đàm và có tu Tứ Niệm Xứ hoặc là có một trong hai thì sẽ thấy ví dụ về bó lau này hay không tưởng tượng được.

Kinh này gồm những câu vấn đáp giữa hai vị cao đồ, một người là Đệ nhất trí tuệ, một người là Đệ nhất vô ngại giải. Vô ngại giải là khả năng phản xạ nhanh vô cùng, chạm là bật. Cả hai vị hoan hỉ trong pháp và trao đổi với nhau.

Hai vị biết rằng mẩu đối thoại này sẽ đến tai ba trăm tỷ người trong tương lai nên mới có mẩu đối thoại này. Ngài xác định: Toàn bộ khổ đau ở đời không phải do ai tạo ra mà đều do các duyên tác động, giống như bó lau này dựa vào bó lau kia mà đứng được. Tại sao Ngài dùng hình ảnh bó lau (sậy)? Tôi nghĩ, nếu mình có một bức tranh chụp bờ lau bãi sậy treo trên tường, vậy là đủ rồi. “Bó” nghĩa là nhiều cọng gom lại. Các duyên tạo nên khổ đau ở đời cũng không phải chỉ có một thứ mà cùng lúc nhiều thứ duyên cộng hưởng với nhau để tạo nên các khổ. Ví dụ do Ba-la-mật của tôi bị kém, tín, tấn, niệm, định, tuệ của tôi kém, tàm úy kém, nên mắt tôi nhìn thấy cái gì đó, thay vì chánh niệm tỉnh giác biết thấy là thấy, nghe là nghe, tôi lại thích cái này ghét cái kia. Từ chỗ ghét này thích kia nó thành nhân phiền não cho đời sau kiếp khác. Phước nhiều thì tái sanh vào cõi vui cõi lành, phước ít thì đi xuống cống làm con này con kia. Luân hồi thì lúc nào đi xuống cũng nhiều hơn. Mỗi người đều có hai bản năng, thiện và bất thiện, giống như có hai tay, tay phải và tay trái, vấn đề là mình thuận tay nào.

Ngài nói toàn bộ đời sống này là do các duyên. Các duyên ở đây là 12 Duyên khởi, nói gọn thì giống như từng duyên hỗ trợ nhau nhưng trong thực tế thì cùng lúc có vô số duyên tác động nhau. Chính vì bất thiện thì dư, Ba-la-mật thì thiếu nên vô minh mới duyên cho hành. Vì vậy ngài Xá Lợi Phất nói: Các khổ ở đời không do ai tạo, không do mình tạo, không do người khác tạo. Thực ra không có cái gì là ta hay người khác. Tất cả đều là các thành tố danh sắc mà thôi. Khi đủ duyên thì khổ, vui, thiện, ác, sanh tử, trầm luân. Đó là duyên luân hồi. Nếu đủ duyên giải thoát tức tròn đủ Ba-la-mật thì tự nhiên ngũ quyền sẽ đủ mạnh để lìa bỏ phiền não, chứng ngộ thánh trí. Như vậy dầu là nhân sanh tử hay nhân giải thoát cũng đều là những bó lau. Vô minh không phải đi một mình mà do thiếu Ba-la-mật, bất thiện thì quá nhiều, nên mới cộng thành một bó vô minh. 

Ngài Xá Lợi Phất dùng hình ảnh bó lau rất là hay, ngài nói chuyện gì ở đời dù là tu hành giải thoát hay sinh tử trầm luân thì mỗi chuyện đều phải nhờ đến vô số nhân duyên và những nhân duyên này không hề đi một mình mà xoắn xít với nhau. Biết có vô số duyên làm nên cuộc đời này chúng ta mới thấy cuộc đời này phù phiếm. Chính vì thấy rằng vạn pháp do duyên, duyên thì có vô số, nên mình sẽ sống trách nhiệm hơn. Một lá me, một sợi tóc, một hạt bụi, cứ ngỡ là nhỏ nhưng chúng có thể là điểm bắt đầu cho trận ba đào bão tố nào đó. Một câu nói, một cái nhìn của mình cũng có thể làm phiền người khác. Tiếp theo là bài kinh Kosambi.

KOSAMBI (Kosambisutta)

Bài kinh này vô cùng hay, nó chạm vô được một sự thật gắn liền với mình. Nội dung kinh là cuộc nói chuyện nói chuyện giữa ba vị tỳ kheo bàn về lý Duyên khởi.

Vị tỳ kheo A hỏi vị B: Tôi hỏi thiệt, nếu không kể niềm tin, không kể kiến thức, tự đáy lòng của sư, sư có nghĩ rằng mình chấp nhận được lý Duyên khởi hay không. Có nhiều người chưa lấy làm chắc, nhưng vì sư phụ của họ nói như vậy, sách vở ghi chép như vậy nên đơn giản họ tin như vậy. Vị B trả lời: Thật ra lý Duyên khởi là do tôi tự thấm thía chứ không phải đơn giản là nghe ai khác.

Sớ giải ghi rằng, ngài Musīla là một vị La-Hán. Ngài Sāvittha hỏi: “Như vậy, Tôn giả Musīla là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc? Khi nghe nói vậy, Tôn giả Musīla giữ im lặng.”.

Sa-môn có hai câu không trả lời: 

1. Ngài có đắc quả chưa? 

2. Ngài có thích món đồ đó hay không? 

Mình không thích mà nói cũng kỳ, mà thích nói cũng kỳ, đây là hai câu mà vị tu hành chơn chánh không trả lời. Chú giải giải thích về sự im lặng của ngài.

Tuṇhī ahosīti thero khīṇāsavo, im lặng là bởi vì ngài là bậc lậu tận. ahaṃ pana khīṇāsavoti vā na vāti vā avatvā tuṇhīyeva ahosi. Im lặng là vì ngài không tiện nói ‘tôi đã đắc hay chưa đắc”

Nội dung rốt ráo của Duyên khởi là nghiệp hữu không còn thì sanh hữu cũng mất. Sanh hữu mất thì không còn tái sinh. Đó chính là Niết bàn.

Nghiệp hữu là các nghiệp thiện ác nói chung. Đâm cha chém chú, nhậu nhẹt, câu cá… gọi là nghiệp hữu bất thiện. Bố thí trì giới, hành thiền… là nghiệp hữu thiện.

Sinh hữu là quả của các nghiệp thiện ác đó. Chính sinh hữu đưa ta đi đầu thai chỗ này chỗ kia.

“bhavanirodho nibbānaṃ nāmāti sekhehipi jānitabbo pañho esa, ayaṃ pana thero imaṃ theraṃ asekhabhūmiyā kāreti, imaṃ ṭhānaṃ jānāpessāmī’’ti etaṃ avoca.”

‘Bhavanirodho nibbānaṃ’: hữu diệt thì Niết bàn.

‘Jānāpeti’: làm cho người khác biết

‘imaṃ ṭhānaṃ’: sự tình này


Lúc đó ngài Sāvittha suy nghĩ rằng câu “hữu diệt thì Niết bàn” vị thánh Hữu học cũng trả lời được nhưng cách trả lời của ngài Musīla rõ ràng là một vị A-la-hán. Ta phải bằng mọi cách cho người khác biết vị này là vị A-la-hán. Đây là cách hành xử của các bậc thánh. Một lần đó có người hỏi ngài Mục Kiền Liên Thế Tôn đang ở đâu, dù có thể trả lời được, nhưng ngài Mục Kiền Liên suy nghĩ, hiện giờ bên cạnh ta có Anurudha là đệ nhất thiên nhãn, ta phải để cho người khác biết vị đó là ai, vì vậy ngài bảo hãy đến hỏi ngài Anurudha. 

Tìm ra được nơi chốn nào mà từng người nơi ấy không từng phút tranh thủ vật chất, danh tiếng, quyền lợi, quyền lực cho mình, lúc nào sống cũng nghĩ đến người khác, tôi gọi đó là thiên đàng. Thiên đàng trong định nghĩa của tôi là nơi chốn như vậy đó; đừng bao giờ nói với tôi là ngọc ngà châu báu, vàng son chói lọi rực rỡ nguy la tráng lệ khi mà thiếu đi tâm tình mà tôi vừa nói. Trụ xứ của thánh nhân là sự buông bỏ toàn diện, bản thân mình có thành tựu chứng đắc cái gì thì cũng không chìm sâu gắm chặt trong đó mà lòng luôn nghĩ về người khác. 

Một lần đó Đức Phật đến thăm đệ tử ở một trú xứ và hỏi: “Huynh đệ các ngươi sống có an lạc hay không?” Các vị ấy trả lời: “chúng con sống rất an lạc, sống với nhau hòa ái tương kính”. Đức Thế Tôn hỏi thế nào là hòa ái. Các vị trả lời: “Chúng con bỏ tâm mình sống bằng tâm người”. Bỏ tâm mình không phải là phóng dật mà là làm cái gì cũng nghĩ chuyện có phiền người không. Một nơi chốn gồm toàn những người như vậy thì tôi cho rằng đó chính là thiên đàng.

Cái xuất sắc ở bài kinh này là gồm nhiều điểm, các ngài nói chuyện với nhau về lý Duyên khởi, xác định toàn bộ thế giới này được vận hành theo nguyên tắc Duyên khởi, cái này có cái kia có, cái này sanh cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt, cái này không có thì cái kia không có.

Ở đây gồm nhiều mẩu đối thoại. Kết thúc mẩu đối thoại thứ nhất khi được hỏi có phải là thánh hay không thì ngài Musīla im lặng. Mẩu thứ hai, khi được hỏi có phải là vị thánh hay không thì ngài không nói phải hay không phải mà trả lời: Tôi giống như một người khát nước giữa trưa, nhìn thấy có giếng có gàu nước nhưng tôi chưa có thòng gàu xuống lấy nước lên.

Ngày xưa khi đọc đoạn này mà chưa đọc chú giải, tôi cũng nghĩ, chắc mình cũng thuộc loại người này: khát nước, thấy giếng nước nhưng chưa múc nước; nhưng Sớ giải kinh này nói, hạng người thấy được giếng nước nhưng chưa uống được tối thiểu cũng là ám chỉ cho A-na-hàm. Lẽ ra vị Sơ quả cũng đáng được gọi là người nhìn thấy giếng nước nhưng chưa hết khát. Ở đây sở dĩ chỉ chọn A-na-hàm vì đây là nhân tuyển cao nhất. Nhân tuyển là gì? Ví dụ tôi đang cần người nấu giùm một bữa đãi khách, cạnh tôi có 10 người, nhưng có một người là bếp trưởng trong nhà hàng năm sao, thì ông đó được gọi là nhân tuyển tốt nhất. Ở đây thì Sơ quả, Nhị quả, Tam quả đều là nhân tuyển hết nhưng ở đây người ta nói vị cao nhất là vị A-na-hàm, vị này biết rõ điều mình chưa đạt được là sự chứng ngộ của vị A-la-hán, nay mai mình sẽ đắc thôi, nhưng bây giờ thì chưa.

Bài kinh này gợi ý cho mình: đời sống là quá trình nhận thức. Cũng con người đó nhưng khả năng an lạc và giải thoát hoàn toàn tùy thuộc vào cái nhìn của mình. Nhìn kiểu nào để tiếp tục sinh tử, nhìn kiểu nào để thành một bậc thánh Hữu học, nhìn kiểu nào để trở thành vị A-la-hán, nhìn kiểu nào để tiếp tục khát nước và nhìn thế nào để không còn khát nữa. Luân hồi hay giải thoát cũng là hành trình nhận thức. 

Có một câu chuyện nhỏ mà tôi rất thích, cách đây mấy bữa trong khi giải trí, tôi có mở một phim lẻ trên youtube coi. Nội dung phim là một người bị kẻ thù truy sát, lẽ ra ổng chết, nhưng người chết đó không phải là ổng mà là thằng con trai duy nhất của ổng. Vô cùng đau lòng. Tuy nhiên, bác sĩ nói đứa con có thể được cứu nếu được truyền máu. Người nhiều khả năng cho máu nhất chính là ổng. Khi thử máu trước khi truyền thì phát hiện ra đứa con không phải là con ổng, và một người báo cho ông biết đứa con đó là do bà vợ ngoại tình sinh ra. Cũng đứa con đó, trước đó ba mươi giây thì ông đau khổ không thể tưởng tượng được. Nhưng ngay khi xác định đó không phải là con mình, thì lòng đau khổ của ông chuyển sang hướng khác. Ông ghen vì bà vợ. Tôi coi mà thấy thấm, đắc quả là ở chỗ này. Từ xưa đến giờ mình nghĩ là con của mình, dồn bao nhiêu mọi thứ thương yêu, rồi một ngày nào đó biết không phải là con mình thì coi như tình hình đổi khác. 

Chứng thánh cũng y như vậy, từ danh sắc của mình, năm uẩn của mình, máu thịt xương da này là của mình, tiền bạc danh phận này là của mình nhưng khi chứng quả rồi thì con người, trời đất mọi thứ chung quanh cũng y như vậy; chỉ có một điều là trong sâu thẳm nhận thức của mình, mình nhận ra rằng mọi thứ không phải là mình. Không có chi là mình thì làm gì có cái của mình. Ngay lúc đó là đắc quả, vô cùng an lạc. 

Vì vậy trong kinh nói, bất cứ một vị Chánh Đẳng Giác nào sau khi thành Phật cũng có thể nhịn ăn suốt bảy tuần, sự an lạc không tưởng tượng được. Ngài nhìn thấy không có gì ngài không biết, và đặt xuống một gánh nặng không thể tưởng tượng được. Giống như thấy xác chết đó không phải người thân của mình, thì nhẹ biết chừng nào. Đi chung với nhau, nghe nói mất hành lý, mà mình liếc thấy hành lý của mình vẫn còn là nhẹ lòng liền. Chỉ là vấn đề nhận thức mà thôi. 

Mới ngày hôm qua tan lớp, tôi ghé chợ một chút, ghé xong tôi đi ra trạm xe bus, coi cái receipt thấy hình như tính lộn mất mười mấy đồng bạc, lòng nhói một cái. Nhưng khi tính lại thấy không có lộn, thì lại thấy quá sá an lạc. Tôi ngồi nghĩ, chẳng lẽ niềm vui của mình rẻ như vậy sao, chỉ mười mấy đồng bạc chớ đâu phải trúng vé số độc đắc. Lúc đó tôi mới nghĩ ra một chuyện thú vị, muốn có hạnh phúc thì mình phải từng lọt trong đau khổ. Từng nghĩ mình bị mất tiền, khi thấy không mất tiền thì mới hạnh phúc. Nếu không có chuyện coi lại receipt thì đau có khổ, nếu không khổ thì đâu có được vui.

NƯỚC THỦY TRIỀU DÂNG

Bài kinh Thủy Triều cũng nói về Duyên khởi. Ngài nói rằng, giống như khi nước thủy triều dâng, sông lớn đầy thì nước sông nhỏ cũng đầy, ao nhỏ cũng đầy. Tôi ở trong chùa Siêu Lý Vĩnh Long cũng cách xa sông, nhưng khi nhìn ao nước đầy lên là tôi biết nước sông cái đang đầy.

Nội dung kinh Thủy Triều là khi các duyên sinh tử hội đủ thì cái này kéo theo cái kia, khi nào duyên giải thoát hội đủ thì duyên này kéo theo duyên kia. Khi Ba-la-mật đầy đủ thì năm quyền tín, tấn, niệm, định, tuệ đầy đủ, gặp Phật ra đời, Ngài thuyết cho mình nghe rồi mình đắc, hoặc xuất gia theo Ngài, ôm bát theo Ngài rồi đắc. Giống như nước thủy triều lên cao ngoài sông thì ao hồ cũng nước lên cao. Mỗi lần thấy mình giận, thấy mình tham thì biết thủy triều của luân hồi đang lên, vì cái này kéo theo cái kia, và trong đời sống này không có cái gì là nhỏ, cái gì cũng có thể là điểm bắt đầu cho vô vàn sự cố khác.
_________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

  1. Kính lễ đức Thế Tôn. Bậc Chánh Giác!

    Kính lễ Pháp. Thiết thực hiện tại, đến để mà thấy, được người có trí tự mình giác hiểu.

    Kính lễ Chư Tăng, Thánh đệ tử của Thế Tôn, bốn đôi tám chúng, là ruộng phước vô thượng ở đời.

    Kính lễ Thánh giới không bị bể vụn, không bị vết nhơ, được nguời có trí ái kính.

    Lành thay được nghe Sư giảng!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa!

      Xóa

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t...

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại...

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,...

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta ...

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.