Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 1 - Tương Ưng Nhân Duyên (1)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 1 - Tương Ưng Nhân Duyên (1)

PHẦN CHÁNH KINH

[12] Chương I: Tương Ưng Nhân Duyên (a)
I. Phẩm Phật Ðà.

I. Thuyết Pháp -- (Tạp 12.16, Ðại 2,85a) (S.ii,1)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Thắng Lâm), trong vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

2) Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói:

-- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về lý Duyên khởi. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

3) Thế Tôn nói như sau:

-- Này các Tỷ-kheo, thế nào là lý Duyên khởi? Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tập khởi.

4) Nhưng do ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Dọ thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là đoạn diệt.

5) Thế Tôn nói như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

II. Phân Biệt -- (Tạp 12.16, Ðại 2,85a) (S.ii,2)

1) Trú ở Sàvatthi (Xá-vệ).

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết và phân tích cho các Ông về lý Duyên khởi. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

3) Thế Tôn nói như sau:

-- Này các Tỷ-kheo, thế nào là lý Duyên khởi? Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên sanh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.

4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là già, chết? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, bị già, yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ tàn lụi, các căn chín muồi. Ðây gọi là già. Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác, sự từ bỏ, hủy hoại, tiêu mất, tử vong, các uẩn hư hoại, thân thể vứt bỏ. Ðây gọi là chết. Như vậy, đây là già, đây là chết. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là già, chết.

5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sanh? Cái gì thuộc chúng sanh này hay chúng sanh khác, thuộc bộ loại chúng sanh này hay thuộc bộ loại chúng sanh khác bị sanh, xuất sanh, giáng sanh, đản sanh, sự xuất hiện các uẩn, sự thành tựu các xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sanh.

6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hữu? Này các Tỷ-kheo, có ba hữu này: Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hữu.

7) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thủ? Này các Tỷ-kheo, có bốn thủ này: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ. Này các Tỷ- kheo, đây gọi là thủ.

8) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ái? Này các Tỷ-kheo, có sáu ái này: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Này các Tỷ- kheo, đây gọi là ái.

9) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thọ? Này các Tỷ-kheo, có sáu thọ này: thọ do nhãn xúc sanh; thọ do nhĩ xúc sanh; thọ do tỷ xúc sanh; thọ do thiệt xúc sanh; thọ do thân xúc sanh; thọ do ý xúc sanh. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thọ.

10) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là xúc? Này các Tỷ-kheo, có sáu xúc này: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là xúc.

11) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sáu xứ? Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là sáu xứ.

12) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là danh sắc? Thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý; đây gọi là danh. Bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo ra; đây gọi là sắc. Như vậy, đây là danh, đây là sắc. Ðây gọi là danh sắc.

13) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thức? Này các Tỷ-kheo, có sáu thức thân này: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thức.

14) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hành? Này các Tỷ-kheo, có ba hành này: thân hành, khẩu hành, ý hành. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành.

15) Này các Tỷ-kheo, thế nào là vô minh? Này các Tỷ-kheo, không rõ biết Khổ, không rõ biết Khổ tập, không rõ biết Khổ diệt, không rõ biết Con đường đưa đến Khổ diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vô minh.

16) Như vậy này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do sự ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn, nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.

III. Con Ðường... (S.ii,4)

1). .. Trú ở Sàvatthi... (như trên).

2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông về tà đạo và chánh đạo. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau:

3) -- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà đạo? Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức... (như trên)... như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tà đạo.

4) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chánh đạo? Do ly tham, đoạn diệt vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là chánh đạo.

IV. Vipassì (Tỳ-bà-thi) (Tạp 15.2-3, Ðại 2,101a) (S.ii,5)

1) Trú ở Sàvatthi.

2) -- Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, trước khi Ngài giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, đã khởi lên tư tưởng sau đây: "Thật sự thế giới này đang lâm nguy, bị sanh, bị già, bị chết, đoạn diệt và tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết xuất ly, thoát khỏi già và chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi nào biết đến xuất ly, thoát khỏi già và chết".

3) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, già, chết có mặt? Do duyên gì, già, chết sanh khởi?". Sau khi như lý tư duy, này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do sanh có mặt, già, chết có mặt. Do duyên sanh, già, chết sanh khởi".

4) Rồi Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, sanh có mặt? Do duyên gì, sanh sanh khởi?". Sau khi như lý tư duy, này các Tỷ- kheo, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do hữu có mặt nên sanh có mặt. Do duyên hữu, sanh sanh khởi".

5) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, hữu có mặt? Do duyên gì, hữu sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thủ có mặt, nên hữu có mặt. Do duyên thủ, hữu sanh khởi".

6) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thủ có mặt? Do duyên gì, thủ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do ái có mặt nên thủ có mặt. Do duyên ái, thủ sanh khởi".

7) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, ái có mặt? Do duyên gì, ái sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thọ có mặt nên ái có mặt. Do duyên thọ, nên ái sanh khởi".

8) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thọ có mặt? Do duyên gì, thọ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ phát sinh minh kiến như sau: "Do xúc có mặt nên thọ có mặt. Do duyên xúc, thọ sanh khởi".

9) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, xúc có mặt? Do duyên gì, xúc sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do sáu xứ có mặt nên xúc có mặt. Do duyên sáu xứ, xúc sanh khởi".

10) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, sáu xứ có mặt? Do duyên gì, sáu xứ sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do danh sắc có mặt nên sáu xứ có mặt. Do duyên danh sắc, sáu xứ sanh khởi".

11) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, danh sắc có mặt? Do duyên gì, danh sắc sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do thức có mặt nên danh sắc có mặt. Do duyên thức, danh sắc sanh khởi".

12) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, thức có mặt? Do duyên gì, thức sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do hành có mặt nên thức có mặt. Do duyên hành, thức sanh khởi".

13) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì có mặt, hành có mặt? Do duyên gì, hành sanh khởi?" Rồi này các Tỷ- kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sinh minh kiến như sau: "Do vô minh có mặt nên hành có mặt. Do duyên vô minh, hành sanh khởi".

14) Như vậy, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

15) "Tập khởi, tập khởi", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, với Bồ-tát Vipassì, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.

16) Và này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên già, chết không có mặt? Do cái gì diệt, già, chết diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do sanh không có mặt nên già, chết không có mặt. Do sanh diệt nên già, chết diệt".

17) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên sanh không có mặt? Do cái gì diệt nên sanh diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do hữu không có mặt nên sanh không có mặt. Do hữu diệt nên sanh diệt".

18) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên hữu không có mặt? Do cái gì diệt nên hữu diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do thủ không có mặt nên hữu không có mặt. Do thủ diệt nên hữu diệt".

19) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên thủ không có mặt? Do cái gì diệt nên thủ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do ái không có mặt nên thủ không có mặt. Do ái diệt nên thủ diệt".

20) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên ái không có mặt? Do cái gì diệt nên ái diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do thọ không có mặt nên ái không có mặt. Do thọ diệt nên ái diệt".

21) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên thọ không có mặt? Do cái gì diệt nên thọ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do xúc không có mặt nên thọ không có mặt. Do xúc diệt nên thọ diệt".

22) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên xúc không có mặt? Do cái gì diệt nên xúc diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do sáu xứ không có mặt nên xúc không có mặt. Do sáu xứ diệt, nên xúc diệt".

23) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt nên sáu xứ không có mặt? Do cái gì diệt nên sáu xứ diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do danh sắc không có mặt nên sáu xứ không có mặt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt".

24) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên danh sắc không có mặt? Do cái gì diệt nên danh sắc diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do thức không có mặt nên danh sắc không có mặt. Do thức diệt nên danh sắc diệt".

25) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên thức không có mặt? Do cái gì diệt nên thức diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do hành không có mặt nên thức không có mặt. Do hành diệt nên thức diệt".

26) Rồi này các Tỷ-kheo, Bồ-tát Vipassì lại suy nghĩ như sau: "Do cái gì không có mặt nên hành không có mặt? Do cái gì diệt nên hành diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, Bồ-tát Vipassì nhờ trí tuệ, phát sanh minh kiến như sau: "Do vô minh không có mặt nên hành không có mặt. Do vô minh diệt nên hành diệt".

27) Như vậy, do vô minh diệt nên hành diệt. Do hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt. Do sáu xứ diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.

28) "Ðoạn diệt, đoạn diệt", này các Tỷ-kheo, trong các pháp từ trước chưa từng được nghe, đối với Bồ-tát Vipassì, nhãn khởi nên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.

V. Sikhì (Thi-khí) (S.ii,9)

-- Này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...

VI. Vessabhu (Tỳ-xá-phù) (S.ii,9)

-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Vessabhu, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...

VII. Kakusandha (Câu-lưu-tôn) (S.ii,9)

-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...

VIII. Konàgamana (Câu-na-hàm). (S.ii,9)

-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...

IX. Kassapa (Ca-diếp) (S.ii,9)

-- Rồi này các Tỷ-kheo, với Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... (như trên)...

X. Mahà Sakya Muni Gotama: Ðại Thích-ca-mâu-ni Cù-đàm. (S.ii,10)

1) Tại Sàvatthi.

2) -- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Thật sự thế giới này bị hãm trong khổ não, bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt và bị tái sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết sự xuất ly, thoát khỏi già, chết; từ nơi đau khổ này, không biết khi nào được biết đến sự xuất ly già, chết".

3) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Cái gì có mặt, già, chết có mặt? Do duyên gì, già, chết sanh khởi?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy, nhờ trí tuệ, Ta phát sinh minh kiến như sau: "Do sanh có mặt nên già, chết có mặt. Do duyên sanh nên già, chết sanh khởi".

4 - 13) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Cái gì có mặt, sanh mới có mặt...hữu... thủ...ái...thọ...xúc...sáu xứ...danh sắc...thức... hành... Do duyên gì hành sanh khởi?"

Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: "Do vô minh có mặt nên hành có mặt. Do duyên vô minh nên hành sanh khởi".

14) Như vậy vô minh duyên hành, hành duyên thức...(như trên)...hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

15) "Tập khởi, tập khởi", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính nơi Ta, nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.

16) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt, già, chết không có mặt? Do cái gì diệt, nên già, chết diệt?" Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: "Do sanh không có mặt nên già, chết không có mặt. Do sanh diệt nên già, chết diệt".

17) Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại suy nghĩ như sau: "Cái gì không có mặt, sanh không có mặt. ..hữu. ..thủ. ..ái. ..thọ. ..xúc. ..sáu xứ...danh sắc. ..thức. ..hành... Do cái gì diệt, hành diệt?"

Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi như lý tư duy về vấn đề này, nhờ trí tuệ, Ta phát sanh minh kiến như sau: "Do vô minh không có mặt nên hành không có mặt. Do duyên vô minh diệt nên hành diệt".

27) Như vậy, vô minh diệt hành diệt; hành diệt, thức diệt... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.

28) "Ðoạn diệt, đoạn diệt", này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, chính nơi Ta nhãn khởi lên, trí khởi lên, tuệ khởi lên, minh khởi lên, quang khởi lên.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

Chương 1: Tương Ưng Nhân Duyên
Phẩm Phật Đà

THUYẾT PHÁP (Paṭiccasamuppādasutta), PHÂN BIỆT (Vibhaṅgasutta)

Sáng nay mình học chương Nhân Duyên. Quí vị cho tôi nói câu này hơi khó nghe là có lẽ mình nên có cuốn Triết Học A-tỳ-đàm chúng tôi mới vừa in cách đây không lâu. Trong đó có một chương nói về giáo lý Duyên khởi tôi cho là có thể được xem là tài liệu tương đối dễ đọc. Dĩ nhiên cho đến hôm nay chúng ta có rất nhiều tài liệu tham khảo nhưng ở đây chúng tôi chỉ nhắc cuốn đó vì lý do đơn giản là nội dung của nó tương đối mềm, không đến nỗi khô khan, không quá sâu hay quá rộng, sách trình bày một cách khá dễ hiểu cho đại chúng không chuyên. 

Cũng nói thiệt luôn là quyển đó chúng tôi in và chỉ riêng phát hành ở Mỹ hiện giờ đã đủ lấy lại vốn để tiếp tục in những cuốn khác rồi. Còn trong nước phát hành nếu chính tay chúng tôi trao cho các vị Phật tử thì không lấy tiền nữa. Nhưng khổ một chỗ chính vì không phải tự tay mình đưa nên có nhiều người không cần họ vẫn lấy, trong khi có những người cần mà không có. Đây là lý do chúng tôi rất băn khoăn. Nếu thông báo cho không thì sẽ có nhiều người không cần cũng ngứa tay lấy, lấy về lót nồi. Lót nồi thì đỡ, lót ngồi mới thảm. Cuối cùng thì chúng tôi hội ý một số vị thân cận thì họ nói cứ phải sòng phẳng thôi. Nếu người không cần mà vẫn lấy thì mình không đủ sách để cho, còn những người nào xứng đáng có mà có nghèo thì chẳng thà họ cắn răng bỏ tiền ra ít có đau hơn là mình cho không mà người ta đem về lót nồi hoặc lót ngồi, trường hợp đó tôi biết rất là nhiều. 

Ở bên Tampa có rất nhiều chùa, nhiều cư sĩ, tu sĩ in sách xong rồi phát tâm bồ đề gởi cho các chùa, mỗi chùa vài thùng. Tôi về chùa thấy chất cả núi, hết chùa này đến chùa khác, nhìn mà chạnh lòng. Ấn tống thì tốt, nhưng người ta không cần mà mình cứ cho thì tiền đâu mà chịu nổi, thảm nhất đó là kinh, in rồi thả trôi nổi trong nhân gian thì đau lòng quá đi. Các vị hỏi sao tôi không đưa lên mạng free. Cũng có lý do, chúng tôi cũng cần tiền để sinh hoạt chứ, chúng tôi không có chùa, tôi chủ trương đi theo con đường của các vị sư Tây Phương, họ sống trong apartment nhỏ ở London hay Paris gì đó, rồi viết sách, in sách. 

Chúng ta cũng biết HT Thích Nhất Hạnh ở Làng Mai có một lượng sách rất là lớn. Khi chúng tôi về Berlin, vô trong mấy nhà sách thấy sách bằng tiếng Đức riêng của HT Nhất Hạnh cả sải tay lận. Kinh Phật trong mấy nhà sách lớn của Đức, của Thụy Sĩ rất nhiều, đó cũng là điều đáng khích lệ. Chưa kể của Pāḷi Text Society London, sách của họ in ra rất đắt tiền, cuốn rất là mỏng khoảng chừng gần hai trăm trang nhưng họ sẵn sàng cho cái giá tới ba bốn chục đô la. Tôi thấy hơi ác nhưng ngẫm lại cũng đúng, bởi vì họ cần kinh phí để sử dụng chuyện khác, chẳng hạn để giải quyết vấn đề nhân sự. Khi cần đến tiền thì họ bắt buộc phải có ngân quỹ, không thể ngửa tay xin người ta hoài. Nói gì thì nói, bán sách vẫn không kỳ bằng ngửa tay đi xin, quyên hoài kỳ lắm. Tôi là tu sĩ mà mỗi lần thấy người ta quyên tiền tôi khó chịu lắm. Dĩ nhiên quí vị có quyền nghĩ tôi như thế nào đó mà khó chịu thì tùy, riêng bản thân tôi, tôi thấy chuyện đó phản cảm lắm. Tôi nghĩ thôi thà bán sách vẫn tốt hơn. 

Nãy giờ xin lạc đề một chút. Có lẽ quí vị nên có cuốn đó, đỡ cực cho quí vị mà cũng đỡ cực cho tôi. Chẳng hạn như sáng nay chúng ta học về phẩm Nhân Duyên, cái này mà nói tới nơi tới chốn thì tôi chỉ có thể nói một điều: chỉ có vị Chánh Đẳng Chánh Giác mới hiểu tới nơi tới chốn lý Duyên khởi thôi. Nghĩa là Ngài tự mình hiểu lý Duyên khởi đủ để thành Phật, đồng thời hiểu đủ để thuyết giảng trình bày phân tích vô số cách cho vô số căn cơ khác nhau. Điểm này là Thanh văn làm không nổi. 

Thí dụ, chúng ta biết giáo lý Duyên khởi nói về dòng sanh tử của mình được bắt đầu như thế nào, công thức nổi tiếng nhất thường gặp nhất đó là: Do vô minh trong Tứ đế nên mới dẫn đến ba hướng sống gọi là ba hành, vô minh duyên hành từ hành dẫn đến thức (là thức tái tục), thức duyên danh sắc (là danh sắc thời tái tục), từ danh sắc tái tục đó mới tạo ra lục nhập (là 6 căn), từ sáu căn đó mới duyên cho xúc, xúc duyên thọ v.v… Đây là công thức rất nổi tiếng mà nhiều người hiểu lầm cứ hình dung đó là một đường thẳng. Vậy là kẹt lắm. 

Để rõ vấn đề này chúng ta chỉ còn có một cách là tham khảo thêm, chớ nói về giáo lý Duyên khởi trong khuôn khổ một buổi giảng như thế này thì phải nói là tôi nói từ đây trở đi đúng 12 tháng lòng tôi cũng chưa thấy thỏa mãn nữa. Nhưng như vậy thì chết rồi, không lẽ nguyên một lớp học chỉ lấy tên là giáo lý Duyên khởi sao. Vì vậy tôi chỉ trình bày một phần thôi, một phần quí vị về đọc thêm. Trước mắt giới thiệu quyển nào thì chúng tôi chịu trách nhiệm quyển đó, đó là quyển Triết Học A-tỳ-đàm của PG Truyền Thống – TK Giác Nguyên, tập một nói về A-tỳ-đàm sơ học, tập hai nói về nghiệp lý và vấn đề tái sanh của Phật Giáo Nguyên Thủy và trong đó có một chương nói về sự phát triển của Phật Giáo hậu thời thông qua sự phát triển của giáo lý A-tỳ-đàm qua các Bộ phái. Tôi nghĩ bà con nên có quyển đó.

Theo chú giải, trên đời này có bốn hạng chúng sanh:

1- 1- Ugghaṭitaññū: nghe qua một câu đã chứng đạo. ‘Ñu’ là người hiểu biết, chỉ nghe một câu là chứng, như ngài Xá Lợi Phất.

2- 2- Vipañcitaññū: nghe giải thích rộng rãi mới chứng đạo.

3- 3- Neyyo: phải được hướng dẫn cặn kẽ rồi nỗ lực qua năm dài tháng rộng mới chứng đạo.

4- 4- Padaparamo: tối đa chỉ có thể trở thành người uyên bác về lý thuyết, không thể chứng đạo.

Trong phẩm Nhân Duyên này bắt đầu bằng hai bài kinh, bài đầu tiên rất ngắn gọn: “Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ nói cho các Ông về lý Duyên khởi. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng… Này các Tỷ-kheo, thế nào là lý Duyên khởi? Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; …như vậy gọi là tập khởi”. Chỉ nói như vậy mà các tỷ kheo nghe xong bài kinh này đều đắc quả A-la-hán hết. Theo chú giải, bài kinh đầu tiên này (có tựa đề Thuyết Pháp) được giảng có các vị tỷ kheo thuộc hạng thứ nhất – các vị tỷ kheo hạng tốc trí (Ugghatitaññu). Bài kinh thứ hai (tựa đề Phân Biệt) dành cho các vị tỷ kheo chậm hơn một chút (Vipañcitaññu).

Hạng Neyyo phải được hướng dẫn cặn kẽ, thí dụ cho họ xuất gia, dạy họ đắp y, mang bát, đi đứng sinh hoạt thế nào cho phải phép hợp luật, hướng dẫn họ cách sống hạnh đầu đà, vô rừng sâu núi thẳm nghĩa địa tha ma, sống ly dục tri túc, từ bỏ quan hệ mật thiết với cư sĩ, không đi sớm về khuya v.v… Thậm chí trong kinh kể có những vị tỷ kheo tinh tấn đến mức những đêm tối mùa đông họ xuống dòng suối ngâm nửa người dưới nước, còn nửa trên thì lấy cỏ khô nhúng nước đội trên đầu cho khỏi buồn ngủ để hành thiền. Có vị tinh tấn như vậy suốt 12 năm mới chứng quả A-la-hán. 

Có nhiều chuyện chỉ nghe nói mình không thấy khổ chứ hạnh khất thực của chư tăng khổ đoạn trường. Đồ khất thực, mình đâu có biết người ta cho mình ăn đồ dơ hay sạch. Mỗi nhà có cách bảo quản thức ăn riêng, có nhà thì gián chuột nhiều nhưng họ đậy sơ sài, tới giờ mình đi ngang họ múc ra để vô bát. Chưa kể trong nhà có trẻ con, có người già, người lẫn, họ vọc hay làm dơ mình đâu biết. Chủ nhà cứ múc mang ra để bát cho mình ăn, đồ nguội lạnh tanh hôi ê, nước cốt dừa dầu mỡ tùm lum hết, những thứ đó hàng xuất gia phải chịu, phải ráng mà ăn, phải nuốt. 

Trong chú giải nói bữa ăn đầu tiên trong đời xuất gia của Bồ tát Tất Đạt, khi Ngài nhận bát thức ăn Ngài ngồi nhìn mà nghe lạnh xương sống. Không dùng muỗng nĩa mà dùng tay. Trộn tất cả các thứ lại, vo tròn một miếng, vừa để vào miệng là Ngài muốn mửa rồi. Ngài không quen nhưng phải ráng nuốt. Nếu tu đúng theo hạnh xuất gia nguyên thủy thì không phải là chuyện giỡn. 

Nói ra cái này sốc dữ lắm nè, nếu mà tu đúng theo Phật Giáo Nguyên Thủy, chỉ cần bây giờ cấm không cho giữ tiền, cấm không cho tiếp xúc thoải mái với cư sĩ thì số lượng tăng chúng sẽ giảm còn một phần mười thôi. Nghĩa là bây giờ anh cạo đầu rồi anh phải ôm bát, anh không được quyền nhận tiền, không được quyền sở hữu tài sản cá nhân, không được quyền tiếp xúc cư sĩ thoải mái, không có vụ học trò đệ tử bạn bè thân quen hỗ trợ cá nhân v.v… thì tăng chúng trên toàn cầu chỉ còn một phần mười thôi. Tôi nhấn mạnh chỗ này vì tôi đang giảng về hạng Neyyo, hạng này phải được hướng dẫn cặn kẽ là vậy.

Hạng thứ tư (Padaparamo) gồm hai trường hợp: Không đủ phước duyên hoặc có đại nguyện chi đó (‘pada’: ‘từ chương’, ‘chữ nghĩa’; ‘paramo’: ‘tối đa’. ‘Padaparamo’: hạng này tối đa là ở mức lý thuyết, mọt sách thôi). Thí dụ như đạo sĩ Sarada tiền thân ngài Xá Lợi Phất, hoặc đạo sĩ Sumedha tiền thân Bồ tát. Cả hai vị đạo sĩ này lúc gặp Phật quá khứ đều có khả năng chứng quả La-Hán hết nhưng vì có đại nguyện riêng, một vị nguyện trở thành Chánh Đẳng Giác, một vị nguyện trở thành Đệ nhất trí tuệ nên tối đa cũng chỉ là về mặt lý thuyết thôi không thể chứng đạo được. Trong khi hạng thứ hai không chứng không phải vì đại nguyện mà vì không đủ phước duyên. Hạng thứ tư thì không đủ phước duyên hoặc có đại nguyện.

Do không biết Tứ đế là gì nên kẻ phàm phu tùy sức chọn một trong ba hướng sống, gọi theo từ chuyên môn là ba hành. Ba hành ở đây có nhiều cách nói. Trong chánh kinh có hai cách giải thích:

1- Thân hành, khẩu hành, ý hành.

2- Phi phúc hành (ác nghiệp), phúc hành (thiện Dục giới và Sắc giới), bất động hành (thiện Vô sắc giới).

Ôn lại Vô minh trong Tứ đế:

– Vô minh trong khổ đế là không biết hiện hữu là khổ

– Vô minh trong tập đế là không biết mọi ham thích là nguồn khổ

– Vô minh trong diệt đế là không biết có một cứu cánh chấm dứt khổ đế (Vô dư Niết bàn) và chấm dứt tập đế (Hữu dư Niết bàn)

– Vô minh trong đạo đế là không biết lý tưởng Bát Chánh Đạo là con đường dứt khổ.

Các vị có để ý là tôi ghi là “lý tưởng Bát Chánh Đạo”chớ không phải Bát Chánh Đạo. Tại sao tôi không gọi là Bát Chánh Đạo mà gọi là lý tưởng Bát Chánh Đạo? Là vì cái tinh thần! Có lúc Bát Chánh Đạo là số 8, có lúc chỉ là số 3, số 1, số 2, số 7, số 5, có lúc là số 6 v.v… Vì vậy ở đây chỉ nói là lý tưởng thôi, còn cách trình bày và trong thực tế hành trì không giống nhau. Số 8 là Bát Chánh Đạo, chỉ riêng giải thích chánh kiến là mất bao nhiêu thời gian rồi. Vì vậy tôi đề nghị bà con phải có bằng được quyển A-tỳ-đàm, chứ còn sáng nay giảng vô minh thôi là đã hết giờ.

Vô minh trong khổ đế là không biết rằng mọi hiện hữu là khổ, nghĩa là cái gì trên đời này cái gì cũng do duyên mà có, có rồi thì phải bị vô thường thay đổi, hễ có sanh thì có tử, hễ có khổ thì có lạc, hễ có lạc thì dứt khoát ngàn phần trăm là sẽ có khổ. Chính vì chỗ này nên mới nói hiện hữu là khổ. Mối quan hệ giữa khổ và lạc như nắm tay và bàn tay. Nắm hay mở cũng chỉ là bàn tay đó.

Chính vì không biết mọi hiện hữu là khổ nên khi bị khổ liền tìm cách giải quyết, bằng những cái mình thích. Đói thì đi tìm cái ăn, khát thì đi tìm cái uống, nóng thì làm cho mát, lạnh thì làm cho ấm, nhung nhớ thì tìm cách gặp mặt, chán ghét thì tìm cách chia tay, cứ như vậy suốt dòng sanh tử, giải quyết cái ghét bằng cái thích mà không biết cái thích là cái gốc của các khổ, chính điểm này mới gọi là vô minh trong tập đế. Cứ tưởng làm trâu làm chó mới khổ, làm người làm chư thiên mới sướng, thật ra làm trâu làm chó khổ một kiểu làm chư thiên cũng khổ kiểu khác, có sanh ra chết đi là nản rồi. Vì không thấy vậy nên cứ mong hưởng cái này cái kia, mong được sanh về cõi này cõi nọ, còn mong là còn tạo tác thiện ác, còn thiện ác thì còn tái sanh. Phạm thiên cao nhất cũng vẫn sa đọa trở về cảnh như cũ. 

Theo trong Tỳ Bà Sa, ông Uddaka Ramaputta, thầy dạy thiền Chỉ cho Bồ tát Tất Đạt tầng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng hiện đang trên cõi Vô Sắc Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, sau này mãn thọ trở xuống sanh làm người một kiếp rồi đọa làm chồn. Một người tu hành ghê gớm như vậy, lên tới trển rồi, hết tuổi thọ rồi cũng phải trở xuống, cũng phải làm con này con kia. Người trí thấy được sẽ sợ điều đó. Quí vị sẽ hỏi: “Tại sao tôi tin phải Phật, dựa vào đâu mà tôi tin chuyện đầu thai tái sanh để sợ, để có nhận thức Tứ đế như Sư đề nghị?” Tôi trả lời vắn tắt thôi. Tôi đọc sách hơi nhiều, tôi có đọc kinh Qur’an, đọc Thánh kinh, đọc Nam Hoa kinh, Đạo đức kinh, đọc giáo lý thần học của Tin Lành, của Cơ Đốc, đọc giáo lý của Cao Đài v.v… và xét thấy nếu tôi không phải là tu sĩ PG, không phải là tín đồ PG, cũng phải thừa nhận rằng lý thuyết của Phật Giáo Nguyên Thủy vẫn đáng để mình bận tâm nhất, ít ra cũng là tài liệu tham khảo. Còn đọc những thứ kia thì thấy phải nói là trớt quớt. 

Trong room có thể có những người không phải là Phật tử hoặc Phật tử kiểu bà ngoại đi chùa thì má đi chùa, má đi chùa thì mình đi chùa, đi chùa mà không có lý tưởng giải thoát, không phải là hạng mà Đức Phật gọi là ‘Paralokabhayadassavi’ – kẻ biết ưu tư khi nghĩ về đời sau kiếp khác. (‘bhayadassavi’: ‘biết sợ’; ‘paraloka’: ‘đời sau kiếp khác’)- người cầu đạo giải thoát. Còn có những người đi chùa theo nếp nhà, hoặc do bạn rủ ngày tết đi cúng thập tự, thấy đi chùa vui nên thành Phật tử, hoặc những người đến chùa do có sự hôn quan tang tế trong gia đình, hoặc đến chùa do cuộc gặp ngẫu nhiên với tăng ni, hoặc tình cờ đọc cuốn sách nào đó, hoặc vì bế tắc hay thất cơ lỡ vận “đời máu lệ tràn đầy khóe mắt, ngàn đau thương trút hết về chùa”, cuối cùng về chùa thành Phật tử. Những người vậy tôi gọi là Phật tử tào lao, Phật tử không có lý tưởng giải thoát gì hết. Dù có dễ duôi cỡ nào cũng phải nhớ một điều, không lý nào mình trên trời rớt xuống, dưới đất chun lên sống mấy chục năm rồi mất tiêu như một làn khói? Chỉ suy nghĩ đó đủ cho mình trở thành một người Phật tử rồi. Vì vậy, hạng thứ ba vô minh là vì không biết có một cứu cánh chấm dứt khổ và tập, đó là vô minh trong diệt đế.

Vô minh trong đạo đế là không biết rằng lý tưởng Bát Chánh Đạo là con đường hết khổ. Người không có niềm tin thì thôi, còn người biết ưu tư khi nghĩ về đời sau kiếp khác thì phải biết lý tưởng Bát Chánh Đạo là lý tưởng sống rất khoa học. Lý tưởng này dạy ta biết bản chất nhân duyên và phù du của đời sống qua cái gọi là Chánh kiến. (Chánh kiến là thấy Nghiệp lý và Tam tướng). Tinh thần Bát Chánh Đạo qua cái gọi là Chánh kiến. (Chánh kiến là thấy Nghiệp lý và Tam tướng). Tinh thần Bát Chánh Đạo dạy ta sống chừng mực hơn, kiểu sống không để lại hối hận. Tinh thần Bát Chánh Đạo dạy ta sống tỉnh thức vì mọi đau khổ trên đời đều đi ra từ sự manh động, mù quáng, thiếu tỉnh thức.

[86] Lý tưởng Bát Chánh Đạo (qua các con số)

Khi nói Bát Chánh Đạo là các con số:

– Số 1: Không dễ duôi (appamada)

– Số 2: Chỉ và quán, hoặc tu thân và tu tâm

– Số 3: Tam học (giới, định, tuệ)

– Số 4: Hiểu và sống theo trí tuệ trong bốn đế

– Số 5: Phát triển tối đa năm quyền (tín, tấn, niệm, định, tuệ).

– Số 6: Làm chủ 6 căn, không để mình thích hay ghét trong 6 trần cảnh, chúng ra sao thì thản nhiên ghi nhận như vậy.

– Số 7: Thất giác chi, 7 yếu tố tâm linh phải có ở người cầu giác ngộ hay ở bậc đã giác ngộ.

– Số 8: Bát Chánh Đạo

Tất cả những con số này gọi chung là tinh thần hay lý tưởng Bát Chánh Đạo. Tôi không nói Bát Chánh Đạo mà nói tinh thần Bát Chánh Đạo là như vậy. Con số 8 này là con số ước lệ trong trường hợp đó thôi. Trong 37 Phẩm Trợ Đạo hay còn gọi là Bồ đề phần (Bodhipakkhiya), A chính là B. Người cầu đạo giải thoát phải nhớ những cái này, muốn tu giải thoát thì phải tu tập 37 Bồ đề phần, trong đó Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo, những tên gọi khác nhau nhưng tinh thần y hệt nhau. Có nhiều người không nói rõ điều này nên khi tiếp xúc với người ngoài Phật Giáo, cứ ôm khư khư con số 8, tạo ra sự phản cảm cho người ta về đạo Phật, làm cho người ta thấy đạo Phật nông cạn, thiển cận, cố chấp, đóng khung, chứ thật ra không phải. 

Trong trường hợp nào đó Đức Phật không có nói con số 8 mà Ngài nói con số 1: không dễ ngươi. Ngày chưa biết đạo thì thích gì làm nấy, biết đạo một tí thì chỉ chọn cái gì cần không phải chọn cái thích, đó là không dễ ngươi. Khi làm điều gì đó, nói điều gì đó thì suy nghĩ không biết có lợi mình lợi người hay hại mình hại người trong đời này kiếp khác hay không. Biết là khó, nhưng nếu quí vị thương thân mình thì phải tập. Bất cứ có suy nghĩ nào đi qua đầu mình thì phải nhận diện, nhớ liền: “cái này không tốt nghen”, buổi đầu có thể không quen nhưng lâu ngày khả năng phát hiện rất giỏi. Lúc đầu có 10 cái suy nghĩ tầm bậy qua đầu mình, mình chỉ phát hiện có 3, từ từ phát hiện 5, 5 rưỡi, rồi 6, 6.1, 6.3 cuối cùng mình phát hiện ra cái bậy không phải 10 mà là 20, rồi từ từ 80, rồi 1000. Lúc đầu mình chỉ thấy những cái xấu thô, càng lên cao mình thấy có những cái xấu vi tế mà lúc đầu mình tưởng hay. 

Ví dụ, mới đầu mình nghĩ, một tháng mình thọ 8 ngày bát quan, nghe pháp bốn chủ nhật là quá giỏi, hành thiền 2 tiếng mỗi ngày là quá giỏi rồi, nhưng về sau sẽ có lúc ta thấy niềm vui trong việc thiện cũng phải xét lại, có lúc niềm vui đó là ngã mạn. Đến lúc nào đó chứng Tam quả rồi vẫn thấy mình còn lầm lỗi, đó là niềm vui thích trong thiền. Chỉ có La-Hán mới hết lầm lỗi. Quí vị học A-tỳ-đàm biết Tam quả là ngon lành lắm rồi, Tam quả là không còn hoài nghi, giới cấm thủ, dục ái và sân. Nếu lấy mắt nhìn thì vị A-la-hán (Tứ quả) và vị Tam quả giống hệt nhau. Vị Tam quả không còn đam mê trong cảnh dục nữa, vị này cũng không còn tâm sân. Không học A-tỳ-đàm thì không biết ‘sân’ nghĩa rất rộng. Ghen tuông, ganh tị, bủn xỉn, sợ hãi, hờn giận đều là tâm sân, theo A-tỳ-đàm, người hết tâm sân thì chấm dứt toàn bộ những thứ này. Có đem bao nhiêu ngọc ngà châu báu, tiên nữ giai nhân đến trước mặt của vị Tam quả thì cũng trớt quớt, không còn chút đam mê thích thú hay bất mãn sợ hãi cái gì nữa. Nhưng nếu vị ấy đắc thiền thì vị ấy còn thích trong thiền, vị ấy còn chút ngã mạn. Không phải ngã mạn giống như mình đâu. Ngã mạn có hai:

—Như thật mạn (yathāvamāna) chấp ngã theo đúng sự thật (hơn nghĩ là hơn, bằng nghĩ là bằng, thua nghĩ là thua).

—Ngộ nhận mạn: (ayathāvamāna) chấp ta không đúng sự thật (thua mà cứ nghĩ bằng, thua mà cứ nghĩ là hơn).

‘Mạn’ ở thánh Tam quả chỉ là một chút phân biệt, còn chút để ý về bỉ thử. Ta với người, đây với kia. Còn vị A-la-hán thì nhìn mình như nhìn một giọt nước trong đại dương. Ba tầng thánh thấp cũng thấy mình là giọt nước trong đại dương nhưng là giọt nước có màu riêng, còn phàm phu thì ai cũng thấy mình là một ngọn núi, một hành tinh, một thế giới, một vũ trụ, là cái gì đó rất độc đáo, độc lập riêng tư…

Chính vì không biết những điều vừa nói nên mới tha thiết tìm đến những hình thức hiện hữu trong đời qua ba hành (thân hành, khẩu hành, ý hành). Tính thiện ác trong ba hành này sẽ dẫn đưa chúng sinh vào các cõi tái sinh. Ngay đến vị Tam quả cũng còn chút vô minh nên còn dư sót một chút thiện để sinh về cõi Phạm thiên dù chỉ trong ít lâu rồi cũng chứng La-Hán và viên tịch.

Ba hành còn được giải thích là: phi phúc hành (tất cả những điều bất thiện), phúc hành (những điều thiện trong cõi Ngũ uẩn), bất động hành (thiện trong cõi Vô sắc). Giải thích cách nào đi nữa thì (thiện trong cõi Vô sắc). Giải thích cách nào đi nữa thì hành cũng có nghĩa là các nghiệp thiện ác dẫn sanh các cõi siêu đọa. Khi một tâm thiện hay ác xuất hiện thì chúng sẽ tạo ra hai loại nghiệp: cũng có nghĩa là các nghiệp thiện ác dẫn sanh các cõi siêu đọa. Khi một tâm thiện hay ác xuất hiện thì chúng sẽ tạo ra hai loại nghiệp: nghiệp tái sinh và và nghiệp bình sinh. Nghiệp tái sinh là cửa mở vào cảnh giới nào đó và nghiệp bình sinh thì quyết định ta buồn vui sướng khổ ra sao trong suốt kiếp sống. Trong đời sống đó gặp chuyện bất mãn thì sân, gặp thứ vừa ý thì tham. Chính hai phiền não này lại tiếp tục tạo ra hai loại nghiệp vừa nói cho kiếp khác.

Ví dụ khi tôi làm điều ác bằng tâm sân, chính vì nghiệp ác đó tạo ra tâm tái tục đời sau tôi sinh làm con rắn hổ, đó là nghiệp tái sinh. Còn nghiệp bình sinh là bây giờ tôi hành hạ chúng sinh khác, sau này tôi làm con rắn tôi bị mấy con lớn rượt đuổi hà hiếp đủ điều, cuối cùng bị người ta đập chết hoặc mấy con rắn lớn nuốt.

Ở mỗi kiếp sống, ta chỉ bắt đầu bằng một nghiệp tái sinh nhưng sau đó thì gặt hái vô số nghiệp bình sinh từ đời trước. Ví dụ do một quả lành nào từ đời trước, trước đây tôi cúng dường Tam bảo chẳng hạn, giờ tôi sanh làm người, nhưng khi tôi đã tái sanh vào bụng mẹ rồi thì kể từ lúc đó đến lúc tắt thở 92 tuổi, tôi phải gặt hái vô số những nghiệp bình sinh mà có từ vô số những nghiệp thiện ác từ đời trước. Ngay lúc còn trong bụng mẹ tôi được sự cưng dưỡng từ phía bên nội bên ngoại, mẹ tôi đi đứng có kẻ nâng người đỡ, hoặc ăn uống tẩm bổ. Hoặc lúc mang tôi trong bụng, mẹ tôi tự tử, uống thuốc rầy thuốc sâu uống trụ sinh, thuốc quá đát quá liều, té lên té xuống, đến lúc sanh tôi ra, gia cảnh bần hàn đói rách, lạnh lẽo, khát sữa, bú thép bà hàng xóm dơ hầy, lớn lên ghẻ chóc đầy mình, bị người khinh rẻ, đánh đập, lấy phải vợ xấu như Thị Nở, nợ nần dây dưa v.v… trong trường hợp như vậy đó là nghiệp bình sinh.

Không có một suy nghĩ, dòng tư tưởng nào mà nhỏ bé, ngắn ngủi, yếu ớt đến mức không đủ sức để lại một nghiệp thiện ác cho kiếp sau. Cứ một tâm thiện ác xuất hiện là lập tức đã gieo mầm sinh tử cho đời sau kiếp khác. Khi có suy nghĩ bất thiện ngang qua đầu như nói một câu bất thiện hay việc làm thiện thì đã có một passport để đi vào quốc gia nào đó, có thể là Bắc Hàn, Somali, Hòa Lan, Thụy Điển… Còn chuyện tôi xuống phi trường rồi mà đời sống ở đó ra sao thì đó là chuyện khác. 

Xin hãy lắng nghe hai câu Pháp Cú (220): Kẻ làm thiện sinh ở đâu cũng được phước xưa đợi chờ như người thân tiếp rước kẻ đi xa trở về. Người làm ác sanh ở đâu cũng bị ác báo chực chờ như kẻ thù đón đợi. Cho nên, “kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà gây ác cho tự thân”, là như vậy đó. Không kẻ thù nào trên đời này đáng sợ cho bằng chính tâm ác của mình. Bởi thằng Tèo ghét thằng Tý nhiều lắm thì nó không ưa thằng Tý thôi; còn chuyện có đâm thằng Tý, làm cho thằng Tý thân bại danh liệt, thân tàn ma dại được hay không thì còn tùy phước nghiệp của thằng Tèo. Còn nghiệp bất thiện thì hễ xuất hiện lúc nào thì người đó đang gieo mầm khổ lúc đó. Còn tái sanh là còn khổ. Ngay khi ta đang hưởng quả cũng chính là lúc ta đang tạo nhân. Luôn luôn như vậy. Khi đang hưởng quả thiện thì phàm phu chỉ biết sống bằng tâm tham, khi đang chịu quả ác thì bằng tâm sân. Cả hai phiền não đó đều là nhân bất thiện cho đời sau.

Khi nói vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc…, danh sắc ở đây là danh sắc lúc đầu thai, sau đó tùy ở cõi nào mà chúng sanh có đủ 6 căn hay không. Khi nói về công thức Duyên khởi ở cách phổ quát thì Đức Phật nói là ‘lục nhập’ nhưng trong thực tế có những cõi không đủ lục nhập (6 căn). Không đủ 6 căn gồm hai trường hợp: do thiếu phước nên không có hoặc do không cần nên không có. Dù đủ hay không đủ Ngài cũng nói là 6. (Đức Phật luôn nói ngắn gọn vì những người ngồi trước mặt Ngài toàn ‘thứ dữ’, người như mình mà gặp Ngài thì Ngài không sống được tám chục tuổi, thành đạo năm trước là năm sau Ngài tịch rồi vì quá mệt. Vì phước duyên của Ngài sống 80 tuổi nên Ngài không thể nào gặp mấy người như mình hết. 

Tôi đã tìm hiểu kinh điển suốt nhiều năm tôi mới hiểu ra lý do vì sao Phật sống được 80 tuổi và lý do vì sao mình không được gặp Phật. Phật sống được 80 tuổi vì Phật không gặp những người như mình, mà gặp những người như mình thì mình chỉ làm phiền Ngài, thành đạo năm 35 thì 36 tuổi Ngài Niết bàn. Giảng như tôi nãy giờ là tôi mất cả năm tuổi thọ chớ không ít đâu). Ở cõi Dục giới mà không đủ sáu căn thì do thiếu phước, riêng các cõi Phạm thiên Sắc giới chỉ có ba căn: nhãn, nhĩ và ý căn, do họ tạm thời không có dục ái, không có nhu cầu hưởng thụ thưởng thức năm trần. Nên nhớ dù không có khứu giác, vị giác, xúc giác, nhưng trên hình thức Phạm thiên vẫn đủ mắt tai mũi. Phạm thiên được xem là đẹp nhất Tam giới, nên Kinh mới nói thân Phật đẹp như thân Phạm Thiên, giọng nói của Ngài được gọi là Phạm âm (Brahmasara). Từ chuyên môn gọi là “phù trần căn” nghĩa là chỉ có hình dáng bên ngoài mà không có thần kinh bên trong. Phạm Thiên Vô Sắc giới thì chỉ có ý căn. 

Đọc trên mặt giấy thì lý Duyên khởi chỉ là một đường thẳng nhưng thực tế thì y hệt như một khu rừng. Chính vì vô minh đời trước nên tôi mới tạo thiện ác, chính vì tạo thiện ác nên đời này tôi mới có thân người (vô minh duyên hành, hành duyên thức). Vì tôi sanh ở cõi Dục giới nên tôi mới có đủ sáu căn (lục nhập). Sự gặp nhau của sáu căn, sáu cảnh, sáu thức gọi là xúc. Trước mặt tôi bây giờ là một đóa hoa hồng. Tâm nhãn thức là tâm quả có từ nghiệp quá khứ, con mắt của người nhìn cũng là sắc nghiệp có từ tiền nghiệp. Cái bông hồng có thể là do nghiệp lực chúng sinh trên trái đất mà có hay chỉ là chuyện tự nhiên của pháp hữu vi.

Quí vị phải đồng ý với tôi là môi trường sinh thái ảnh hưởng đến sức khỏe đời sống xã hội, đời sống cá nhân. Những điểm dị biệt độc đáo về sinh học (động vật hay thực vật) ở một địa phương có ảnh hưởng sức khỏe con người. Ví dụ như dân Địa Trung Hải rất khỏe mạnh, họ không bị tim mạch và ung thư, vì môi trường khí hậu, đất đai thổ nhưỡng ở đó không trồng được gì nhiều ngoài xương rồng, ô-liu và chà là. Họ ăn thứ gì cũng có ô-liu, trái ô-liu, dầu ô-liu, trộn xà lách hay bánh mì chấm dầu ô liu. Nếu hôm nay tôi về VN thì ngoài thuốc calcium và thuốc mỗi ngày uống tạo nhờn cho khớp bắt buộc tôi phải đem theo dầu ô-liu. Chính vì môi trường ở Địa Trung Hải như vậy nên người dân ở đó không bịnh tim mạch và ung thư. 

Còn người Nhật sống thọ vì chung quanh là biển, họ ăn cá rất nhiều, nhiều hơn ăn thịt (ăn thịt đỏ không tốt), nên họ mới khỏe hơn người xứ khác. Dĩ nhiên điều đó không phải là tuyệt đối. Tôi đang ở bên Đức, mới chiều hôm qua tôi nghe tin bên Thụy Sĩ (hai nước cách nhau con sông nhỏ xíu), có một bà nào đó không hút thuốc không bia rượu mà chết vì ung thư phổi. Giàu có, sang trọng học thức, ăn uống đầy đủ thuốc men ngon lành mà cuối cùng lăn ra chết. Tất nhiên là đừng có tin tuyệt đối, tôi chỉ ví dụ thôi. Hoa hồng có thể do nghiệp chúng sanh tạo là vì do nghiệp chúng sanh mới khiến cho vùng đất ở đó, địa phương đó phải như vậy. Khi khí hậu như vậy đất đai như vậy thì tự nhiên có những cây cối, động vật, thực vật, rong tảo tương ứng để cho người ở đó có một sức khỏe, thân thể, tình trạng sinh học tương ứng. 

Có hai trường hợp, do nghiệp chúng sanh khiến một nơi chốn trở thành như vậy hoặc do nghiệp khiến ta đến sống một chỗ như vậy. Kể cả những loài cỏ dại bé xíu cũng không phải ngẫu nhiên mà có, vì rất có thể chúng là thức ăn cho một loài động vật nào đó, và loài này lại có ảnh hưởng đến con người. Ví dụ có những loài cá, cua, sâu bọ, chồn cáo nai thỏ thích loại cỏ nào đó mà những con này lại ảnh hưởng đến con người. Tôi đang nói như lạc đề nhưng thật ra tôi cho quí vị biết bối cảnh sống thực sự như thế nào, do nghiệp đời trước tôi có đủ 6 căn, khi tôi nhìn thấy một cái hoa mà nếu tôi thích thì đó là tâm tham, chính tâm tham này lại tạo ra một cái nghiệp tái sinh dục giới cho tôi đời sau. Chính cái thích trong hình ảnh nào đó là sắc ái, nó sẽ tạo ra tâm nhãn thức đời sau. Thích cảnh thinh nào đó là thinh ái sẽ tạo ra tâm nhĩ thức đời sau…. Cứ như vậy.

Một người tạo phước bằng tâm đại thiện thứ nhất sẽ hưởng được 16 quả gồm: 8 đại quả hữu nhân và 8 quả vô nhân (trong đó có ngũ song thức). Chính vì còn sắc ái, thinh ái … nên mới tác động cho ngũ song thức đó có mặt. Một người đắc Sơ thiền (tạm thời) không còn sắc ái, thinh ái, về Phạm thiên không có tỷ, thiệt, thân nữa, vì ba giác quan này thật sự không cần thiết trên đó, riêng nhãn, nhĩ có mặt không phải do sắc ái, thinh ái như người ở cõi Dục mà chỉ vì đây là hai giác quan tối thiểu để làm hai việc sau đây:

1. Phân biệt Phạm thiên Hữu tưởng với Vô tưởng, Sắc giới với Vô sắc.

Phạm thiên cõi Ngũ uẩn mà không có nhãn, nhĩ, thì không thấy không nghe làm sao họ sinh hoạt đây, họ chỉ có nước ngồi yên, vì vậy họ phải có để sinh hoạt, và để phân biệt họ với Phạm thiên cõi Vô sắc. Phạm thiên cõi Vô sắc chỉ có tâm mà không có thân. Phạm thiên cõi Hữu sắc nếu không có nhãn, nhĩ thì Hữu sắc để làm gì, lúc này coi như tương đương với Vô tưởng. Phạm thiên Vô tưởng là vị đã đắc Ngũ thiền rồi mà nhàm chán cái tâm nên nguyện đời sau sanh ra không có tâm trong suốt năm trăm đại kiếp, sau đó trở lại bình thường. Phạm thiên cõi Ngũ uẩn mà không có nhãn, nhĩ thì đời sống vị này gần giống như Phạm thiên cõi Vô tưởng, không làm ăn gì hết. Chỉ có sắc, thân cho vui thì giống như Phạm thiên cõi Vô tưởng. Chỉ sinh hoạt bằng tâm thì giống Vô Sắc. Vì vậy bắt buộc vị này phải có nhãn nhĩ để không giống Vô tưởng mà cũng không giống Vô sắc.

2. Nhãn nhĩ là những giác quan phải nhờ đến để tiếp xúc gặp gỡ khi Phạm thiên làm thiện.

Ngay bây giờ tôi đang nhìn một cái hoa, nếu cái hoa đó xấu quá, héo, có sâu nằm trong đó, thì tôi bực, chính cái bực đó là tâm sân, tôi đã gieo mầm tái sinh cho đời sau, còn nếu tôi nhìn mà tôi thích thì coi như tôi gieo chủng tử dục giới cho đời sau. Một người chứng thiền luôn nhờ đến các tâm đại thiện (Dục giới) nhưng sau đó các tâm này không cho quả ngũ song thức mà đương sự lại sinh về cõi Phạm thiên không có khứu, vị, xúc, giác.

Phẩm Nhân Duyên có một nội dung giống nhau nên bài đầu tiên tôi giảng nhiều nhất, kỹ nhất, những kinh sau trong phẩm chúng tôi chỉ nói đại khái, quí vị coi thì biết. Chỉ tập trung bài kinh đầu tiên. Sẵn đây cũng nhắc lại nếu điều kiện thuận tiện, quí vị có thể tìm đọc thêm cuốn Triết Học Phật Giáo, quyển đó tương đối sáng sủa, giúp đỡ quí vị được ít nhiều trong việc tìm hiểu giáo lý Duyên khởi, chớ không thể nào trong một hai buổi giảng mà thay thế được cả cuốn sách. Tôi chỉ nhắc lại công thức để nhớ giáo lý Duyên khởi là gồm một số tiêu điểm sau đây:

– Do Vô minh trong Tứ đế nên có ba hành.

-Trong mỗi giây phút sống của chúng sinh có đủ cả nhân sinh tử và quả sinh tử. Khi buồn thì phàm phu sống bằng tâm sân vốn là nhân sanh tử, khi vui thì sống bằng tâm tham cũng nhân sanh tử, khi làm thiện bằng tâm lành thì cũng là nhân sanh tử. Nhân sanh tử có tính thiện thì dẫn sanh cõi vui. Nhân sanh tử có tính ác thì dẫn sanh cõi khổ. Trong cái gọi là nhân sanh tử có tính thiện gồm ba trường hợp: thiện Dục giới, thiện Sắc giới, thiện Vô sắc giới. Với tính Thiện Sắc giới thì sinh về các cõi Phạm thiên Sắc giới cao thấp tùy theo tầng thiền mình chứng. Với tính thiện Vô sắc giới, cũng vậy. Sau khi sinh về các cõi và sống mãn thọ ở đó thì phàm phu tiếp tục luẩn quẩn theo duyên nghiệp. 

Trong từng phút, phàm phu sống trong quả sanh tử và nhân sanh tử. Đừng hiểu lý Duyên Khởi là một đường thẳng kiểu sợi chỉ. Chẳng hạn ngay trong một phút ta vừa sống với lục nhập, rồi 6 xúc, 6 thọ, 6 ái, 4 thủ, nghiệp hữu, sanh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ ưu não. Tất cả có thể diễn ra trong – trước – sau một phút đồng hồ. Quả bây giờ có từ nhân trước, nhân bây giờ sẽ cho quả tương lai. Ví dụ, tôi đang nói chuyện với các vị, trước mặt tôi là bình hoa, con mắt tôi nhìn thấy bình hoa, tâm nhãn thức nhìn thấy bình hoa đó là tâm quả có được từ nghiệp quá khứ. Nhưng khi tôi nhìn bình hoa mà tôi thích thì cái thích đó chính là tham ái.

Trong một phút của mình có cả quả sinh tử và nhân sinh tử. Nếu được mình lấy cây viết vẽ vô tờ giấy trước mặt cái vòng tròn. Những cái biết của mình trong 6 trần: cái biết của con mắt thấy cảnh sắc, cái biết của lỗ tai để nghe tiếng, cái biết của lỗ mũi-khứu giác để nghe mùi v.v…, tất cả những cái biết này đều là tâm quả, tâm quả là những tâm có được từ nghiệp quá khứ. Có người, đời này cặp mắt của họ thường xuyên thấy những gì họ vừa ý, kể cả cái họ không vừa ý thì cũng là những cái gì sạch đẹp. Đó gọi là tâm nhãn thức quả thiện. Có người, suốt đời này cặp mắt của họ thấy toàn cái dơ, cái xấu, cái tào lao. Đó gọi là tâm nhãn thức quả bất thiện. Tâm nhãn thức này có từ nhân xấu đời trước. 

Một cách tình cờ, tôi biết một số vị Phật tử từ bé năm bảy tuổi đã đi vượt biên ra nước ngoài, được cha mẹ cho ăn học, từ lúc 9, 10 tuổi đã được đi vòng quanh thế giới. Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Pháp, Đức… họ đều đi hết. Tôi thấy họ hay chê. Đi ngang một ngọn đồi đẹp, tôi khen, nhưng họ nói cũng thường, riết rồi tôi bực, nhưng họ nói cái họ thấy đẹp hơn nhiều. Sau này tôi biết thật sự như vậy. Họ từng thấy những cái siêu thực, không tưởng, hoang đường trong suy nghĩ của người khác. Đó là nhãn thức quả thiện. Có những người mà miệng họ đã được nếm đủ sơn hào hải vị của cả hành tinh. Có những người trên đời này sống toàn bằng tâm quả thiện, trong khi đó có những người từ nhỏ đã phải chấp nhận bụi bặm, nóng nực, mùi hôi, những thứ cũ, dơ, rách, rẻ tiền, suốt mấy chục năm trời, đó gọi là tâm quả bất thiện. 

Không phải một người đời này bất hạnh là họ không có phước, không phải là suốt nhiều đời họ không làm công đức. Suốt nhiều đời họ đã làm nhiều công đức nhưng nhằm ngay kiếp này họ đang nhận quả xấu. Ngược lại, không phải những người đời này đang vô cùng sung sướng là họ không làm ác nghiệp trong quá khứ, mà chỉ là nhằm ngay lúc này họ đang hưởng quả, họ đang nhằm mùa sầu riêng. Người sung sướng đời này có thể là đang vào mùa thu hoạch sầu riêng, măng cụt. Người chịu khổ đời này có thể là nhằm lúc vườn trái của họ đang sái mùa. Vì vậy, dù họ siêng dữ lắm, tu hành dữ lắm, làm cỏ bón phân, cắt tỉa, mà cứ ra lá, còn anh kia xì ke ma túy chích choác nhưng nhằm ngay mùa sầu riêng măng cụt nên ra vườn là đem vô ăn, đem vô bán. 

Phải biết cái này để đừng coi thường ai hết. Bồ tát có lúc còn đọa địa ngục, đọa địa ngục còn khổ gấp triệu lần sống kiếp nghèo trên cõi Người. Mỗi người chỉ là một chiếc lá trong dòng chảy của cuộc sinh tử, lúc thì chúng ta ghé vào bờ này, khi thì chúng ta ghé sang bến kia. Nhằm ngay cái lúc được hưởng phước thì sướng như tiên, nhằm lúc chịu khổ thì khổ như điên. Ngay trong từng phút chúng ta đang gieo nhân mới và đang hái quả cũ. Quả cũ là đang nhìn cái mình thích đang nhìn cái mình ghét, đang nghe cái mình thích, đang nghe cái mình ghét, đang ngửi cái mình thích đang ngửi cái mình ghét v.v… 

Suốt hăm bốn giờ đồng hồ, có lúc nào ngũ song thức – năm căn vật chất của quí vị không làm việc không? Chỉ trừ lúc ngủ! Đức Phật dạy rằng, con chim có dịp là bay về trời, con cá có dịp thì nhảy xuống nước, chồn cáo thích về hang như thế nào thì con mắt cũng luôn chờ dịp để nhìn, lỗ tai luôn luôn trong tình trạng sẵn sàng lắng nghe, lỗ mũi của mình luôn luôn trong tình trạng available, lưỡi của mình cũng luôn luôn trong tình trạng sẵn sàng làm việc. Như vậy là rõ ràng trong từng phút chúng ta đang sống trong quả. 

Còn nhân thì sao? Mỗi lần con mắt của mình, lỗ tai của mình nó biết cái gì mình thích thì mình sống bằng tâm tham; nó biết cái gì mình ghét thì mình sống bằng tâm sân. Mà tham và sân là nhân sinh tử dẫn về cõi đọa. Còn những khi nghe hoặc thấy chiếc lá vàng rơi, mình tu thiền quán; nghe tiếng suối chảy, mình tu thiền quán; nghe thân này đau đớn, mình tu thiền quán, thì lúc đó mình sống bằng tâm thiện. Khổ nỗi tâm thiện này cũng là nhân sinh tử, có điều là nó đưa mình về cõi sướng. Chỉ vậy thôi. 

Mình sanh tử bằng sáu căn thì mình cũng có thể giải thoát bằng sáu căn là vậy đó. Có những người, cái thấy cái nghe của họ chỉ đủ cho họ có tâm sân tâm tham, nhưng chúng ta phải nhìn nhận có lúc những hình ảnh, những âm thanh, những mùi vị, những xúc chạm… lại làm cho mình có tâm thiện. Ví dụ, đối với hành giả tu Tứ Niệm Xứ thì cảnh nào cũng là cảnh chánh niệm hết. Cái mùi hoa lài người ta thường cúng trong những buổi lễ ở VN đã trở thành ấn tượng rất tốt đối với tôi, bây giờ tôi già rồi mà đi bất cứ xứ nào nghe mùi hoa lài tôi lại nhớ cái lễ chùa ở VN, lạ như vậy đó. 

Cũng giống như bây giờ mà tôi nghe cái mùi phân bò ở mấy vùng nông trại ở Thụy Sĩ là tôi nhớ thời gian tôi sống ở Long Thành VN, hoặc nghe mùi rơm mùi cỏ cháy là nhớ về miền Tây cũng mình. Mỗi cái mùi, mỗi âm thanh mình nghe được hoàn toàn có thể là một lối về, một sự dẫn dắt, một sự khơi gợi về một cảnh giới nào đó. Nói như vậy có nghĩa là trong từng phút những gì mình nghe mình thấy mình ngửi mình nếm, đụng và suy tư rất có thể đó là cơ hội để mình sống thiện và sống bất thiện. Dầu cho mình sống bằng tâm thiện hay tâm bất thiện đều là sự sanh tử hết. Nói như vậy không có nghĩa là tôi bài bác cái thiện. Hễ mình còn trong dòng sanh tử, cái thiện này là cái phải có:

– Để mình bớt khổ, thay vì sanh làm con nhà nghèo thì mình sanh làm con nhà giàu đỡ khổ hơn.

– Nhờ có thiện pháp mình mới có trí tuệ, có điều kiện để học đạo, tu hành, đắc chứng, giải thoát, chứ nói rốt ráo thiện ác gì cũng sanh tử rồi không trau dồi cái thiện là sai.

Trong khu rừng có những con đường đưa mình tới chỗ chết nhưng cũng có những con đường đưa mình ra ngoài bìa rừng. Nói cho sang vậy chứ con đường đưa mình vô rừng sâu hay ra bên ngoài rừng chỉ là một, vấn đề là hướng đi của mình. Hai con đường này chỉ là một thôi, tùy mặt mình xoay hướng nào. Hễ chưa ra khỏi rừng thì mình còn có mặt trong rừng và đôi chân của mình vẫn tiếp tục đặt trên con đường rừng. Thiện pháp cũng vậy đó, thiện pháp của người cầu đạo giải thoát cũng y hệt như thiện pháp của người đam mê sanh tử, chỉ khác một điểm là cái nhìn. 

Tôi nhớ Tây có câu hay lắm: Du lịch không phải là chỉ đến chỗ lạ, chỗ đẹp mà cái cần thiết nhất ở đây là cái nhìn mới lạ và cái nhìn thưởng thức cái đẹp. Nếu mình đến chỗ lạ mà cứ móc cái phone ra, kêu về nhà: ‘anh đang ở đây’, ‘em đang ở đây’, ‘chỗ này đẹp lắm má’… cứ chun vô bụi nói phone mãi thì không phải du lịch. Tôi đã thấy có người như vậy rồi, đi đến đâu là cứ móc cái phone ra chun vô bụi. Còn vụ này nữa, nói lạc đề nhưng không thể không nói, có người đi tới chỗ đẹp là cứ chụp hình. Nghe cái này các vị cứ chống đối tôi nhưng nghe kỹ thì các vị sẽ đồng ý với tôi. Những hình ảnh mình chụp được đem về nhà chắc gì đẹp bằng những hình ảnh trên internet. Người ta chụp bằng cái máy chuyên nghiệp professional, bằng khả năng chuyên nghiệp. Còn mình thấy đẹp quá mình cứ móc cái máy cái phone ra chụp, cái đó thì đúng, nhưng chụp một cái hai cái cho vui thôi, điều chủ yếu là phải nhìn, phải quan sát. Vì sao? 

Mình đi du lịch thì phải nhìn bằng con mắt, đằng này mình cứ móc cái máy ra chụp, làm lơ không thèm coi. Lên xe, xe chạy rồi mới móc cái máy hình ra ngồi coi lại, tưởng sao, coi toàn là hình chết không hà. Theo tôi, tôi mà tới chỗ đó là tôi sẽ đi tan nát hết, tôi đi bằng đôi chân của tôi, tôi nhìn bằng con mắt của tôi, tôi lắng nghe tiếng nước chảy, tiếng sóng vỗ bằng lỗ tai của tôi, tôi nghe mùi hương của gió, của rong biển, của hoa, của cỏ, của đất, của đá bằng lỗ mũi của tôi, tôi sờ chạm bằng bàn tay của tôi cho đã đời đi, xong rồi tôi mới từ từ lựa chỗ nào ngon lành nhất, độc đáo nhất, bấm hai ba tấm rồi ngưng. Trừ trường hợp mình đi với một người nào đó, mình chụp hình cho người ta để người ta làm kỷ niệm thì khi đó tôi ráng cắn răng chụp chớ nếu mà tôi đi một mình thì tôi chỉ làm chừng vài tấm để gọi là.

Ở đây có ba nguồn tài liệu trước mắt mà tôi nghĩ quí vị nên tìm vào để đọc thêm:

– Kinh Đại Duyên, Trường Bộ Kinh (Kinh số 15), nếu được đọc thêm cả chú giải.

– Bộ Phân Tích Vibhaṅga, phần nói về Duyên khởi. Trong Vibhaṅga có 18 phần, Duyên Khởi là một trong 18 phần.

– Kinh Vị Tằng Hữu, Trung Bộ Kinh. (Kinh số 123).

Bộ Phân Tích Vibhaṅga đã được dịch sang tiếng Việt rồi, sư trưởng TT Thích Hoàng Pháp đã in rồi. Bộ đó tôi cho rằng đó là sách gối đầu, Phật tử Nam Tông không thể không biết bộ đó. Có nhiều Phật tử nói với chúng tôi là bộ đó đọc nhức đầu. Nói thẳng ra, hễ nhìn mặt người nào thấy không có hy vọng thì tôi nói, ừ, đọc nhức đầu lắm, quí vị nào mà tôi thấy có chút niềm tin là ráng được thì tôi cho biết một chi tiết, nếu là nói nhức đầu thì trong 7 bộ đó người hiếu học dù có sơ cơ cũng có thể đọc hiểu chút ít hai bộ là Bộ Phân Tích và Bộ Ngữ Tông. Đọc mà bí thì đi kiếm thầy, kiếm sách. Đó là kinh nghiệm học đạo chớ quí vị đừng bao giờ ngồi chờ đợi kiến thức trên trời rớt xuống. Người ta nói nằm chờ sung rụng nhưng phải lựa cây sung nào mà nằm chớ đừng thấy cây sung chưa ra trái mà nằm chờ, chưa kể ra trái mà chưa tới mùa chín thì có hả rách miệng chờ cũng không thấy rụng.

Tôi đề nghị kinh Vị Tằng Hữu vì tôi muốn giảng chung tất cả các kinh trong phẩm Nhân Duyên này dồn vô thành một. Kinh Vị Tằng Hữu này nói về những điều đặc biệt của vị Bồ tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót.

Phẩm này nói về 7 Phật, xác định chư Phật đều phải trải qua một canh đầu của đêm trước khi thành Phật để dùng Túc mạng minh quán xét quả luân hồi, sanh ở đâu, như thế nào. Sau đó dùng trọn canh giữa để quán nhân luân hồi, và vì sao mình lại có mặt trong những kiếp sống siêu đọa buồn vui đó, thấy rõ do thiện nghiệp mà được hưởng vui, do ác nghiệp mà phải chịu khổ.

Túc mạng minh là để thấy quả luân hồi. Sanh tử minh là để thấy nhân luân hồi. Đầu canh cuối, các ngài ra khỏi Tứ thiền (tức Ngũ thiền bên A-tỳ-đàm) quán xét 12 Duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch, xong chiều nghịch thì lập tức chứng một loạt Sơ đạo, Sơ quả … Tứ đạo, Tứ quả và tức khắc chứng thành Phật quả cùng lúc với Nhất thiết trí ngay sau khi tâm Tứ quả xuất hiện.

Tại sao Ngài phải dài dòng một đêm như vậy? Vì Ngài giống như Tổng thống Mỹ, đi đâu ngoài chuyên cơ còn phải xe riêng, nguyên nhóm vệ sĩ, phóng viên nhà báo, còn phải thêm đám nhà bếp, hậu cần. Ông muốn tới VN, ghé Hà Nội, thì đám mật vụ phải tới Hà Nội trước đó mấy ngày. Mấy cái vali samsonite họ cầm theo là dùng để tránh đạn, khi có sự cố là dùng để chụp che người ông. Xe của Tổng thống Mỹ chỉ có mật vụ Mỹ mới mở được. Tại sao lại rắc rối như vậy, vì cái chết của ổng sẽ dẫn đến một tỷ vấn đề của thế giới. Ổng mãn nhiệm rồi thì thôi nhưng còn đang đương chức thì rắc rối sẽ xảy ra khi ổng bị ám sát dù ám sát hụt hay ám sát thành công. 

Còn vị Chánh Đẳng Giác, vì Ngài chứng ngộ Nhất thiết trí nên thời gian chứng ngộ phải lâu như vậy. Canh đầu Ngài phải dùng Túc mạng minh để quán chiếu quả luân hồi: thọ, hành, tánh, tướng, tức là bàng sanh, địa ngục, A-tu-la ngạ quỷ, mập ốm, cao thấp, trắng đen, buồn vui… ra sao. Canh giữa Ngài dùng Thiên nhãn minh để soi rọi vì sao mình còn chuyện kiếp này như vầy, kiếp kia như vậy. Muốn quán chiếu Túc mạng minh hay Sanh tử minh thì vị đó phải là người chứng Ngũ thiền. Sau khi xong canh hai rồi, Ngài mới ra khỏi, không còn tiếp tục dùng Tâm đáo đại nữa mà lúc đó Ngài dùng Tâm đại thiện. 

Vị hóa thông thì phải nhập Thiền cơ trước, ví dụ vị đó muốn đi trên nước, muốn đi trên hư không thì vị đó phải nhập đề mục đất. Nhập đề mục đất xong xuôi, vị đó ra khỏi Thiền cơ đó mới tác ý chú nguyện ‘hãy có một con đường đất’, nghĩ như vậy thì lập tức có. Lúc đang đi như vậy vị đó xài Tâm đại thiện dục giới, không phải Tâm đáo đại vì đã ra khỏi Thiền cơ. Thiền cơ tức là tầng Ngũ thiền mình chứng đó chỉ biết cảnh đề mục thôi. Đến canh thứ ba, Bồ tát không còn dùng Tâm đáo đại nữa mà dùng Tâm đại thiện Dục giới để quán chiếu 12 Duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch.

Quán chiếu 12 Duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch.

Quán chiếu như thế nào? Quán chiếu bằng cách tự hỏi: 

Thân này từ đâu có? Sau đó tự trả lời rằng: Từ sự chào đời mà có. 

Rồi cứ vậy tự hỏi thêm: Sanh từ đâu mà có? Sanh có từ sự tái tục, đầu thai.

Sự đầu thai có từ Tâm quả tái tục. Tâm quả đó có từ Tâm thiện ác, tức nghiệp hữu, còn tâm tái tục là sinh hữu.

Hữu có từ Tứ thủ (Tứ thủ nói gọn là tham ái và tà kiến trong chuyện hưởng lạc và chấp ngã).

Tứ thủ chính là tham ái và tà kiến ở mức độ sâu đậm.

Ái có từ 3 thọ: gặp thọ lạc thì thích, gặp thọ khổthì tưởng nhớ đến thọ lạc và mong đừng khổ nữa, cả hai thái độ này đều là nhân sinh ái.

Thọ có từ xúc, xúc là sự gặp nhau giữa lục căn, lục thức, lục trần.

Xúc lại có từ sự hiện hữu của lục căn.

Lục căn lại có mặt từ danh sắc tái tục, tức những tố chất đầu đời quyết định ta có đủ 6 căn trong kiếp sống đó hay không. 

Theo tôi đọc và theo tôi nghe thì thường người VN hay làm lơ chỗ này. Chúng sanh cõi Dục nếu thiếu phước thì chỉ có một vài căn trong 6 căn, đủ phước thì không thiếu căn nào. Cõi này mà thiếu một cái là coi như khuyết tật. 

Ví dụ người khùng bẩm sinh, họ có đủ 6 căn nhưng ý căn của họ có vấn đề. Hai thằng khùng đi ngoài đường gây lộn nhau, một thằng nói: Trời tối rồi sao mặt trời chưa lặn? Thằng kia nói: Mặt trăng chớ mặt trời gì! Một người tỉnh đi ngang qua nói: Đèn đường đó mấy cha! Đây không phải là chuyện cười mà là chuyện minh họa cho cái phàm phu của chúng ta. Thằng thứ nhất vô minh và tà kiến quá nặng, đã biết trời “tối” rồi mà lại thấy mặt trời chưa lặn. Thằng thứ hai thì thông minh hơn, biết tối thì không có mặt trời mà chỉ có mặt trăng. Hai người này tượng trưng cho phàm phu mình, phàm phu mình có người hoàn toàn không biết gì hết, đó là những con thú trâu chó heo gà, y như thằng khùng thứ nhất. Thằng thứ hai là nhân loại mình, chư thiên, Phạm thiên, thông minh hơn, biết đêm thì là mặt trăng, khôn hơn thằng thứ nhất nhưng vẫn là thằng khùng thôi. Anh chàng thứ ba mới là tượng trưng cho người hiểu đạo, anh chàng thứ nhất là mù tịt, anh chàng thứ hai là biết ba mớ.

Vô minh là không biết cái đáng biết, chỉ biết cái không cần biết, tức chỉ biết theo cách kích thích phiền não. 

Quí vị mà biết rõ người quen của mình họ nghĩ gì về mình, thì mình chỉ có vô núi mà ở thôi. Kể cả những người ôm ngang lưng vỗ vai mình, bà xã mình, ông xã mình, mình không biết trong đầu họ nghĩ gì về mình. Mình không biết chừng nào mình chết, chết kiểu nào, chết ở đâu, mình nghĩ là còn lâu lắm mình mới chết. Mình không cần đắc gì hết, chỉ cần nhìn xuyên thấu người ta như X-ray, biết rõ đây là ruột non đây là ruột già, thấy người ta ăn vào thì thức ăn chạy từ miệng xuống thực quản qua bao tử, rồi tiêu hóa qua ruột già rồi tống ra ngoài; nếu nhìn thấy tận mắt hành trình đó thì mình không thể nào ôm hôn một người với sự lãng mạn yêu đương. Nhờ mình không biết mà mình dệt mộng, mình gọi đây là mày lá liễu, mũi dọc dừa, môi trái tim, mái tóc huyền, đáy thắt lưng ong, bụng sáu múi… những cái biết đó là cái biết kích thích phiền não. Hoặc mình thấy mặt thằng này đúng là cái thằng tháng trước chửi mình, viết email, gọi điện thoại chửi mình v.v… toàn là những cái biết kích thích phiền não. 

Trong khi vị A-la-hán chỉ nhìn mình hai cách: cách tục đế và cách chơn đế. Cách tục đế là biết mình chỉ đáng thương (người bất thiện) và dễ thương (người thiện); cách chân đế là nhìn cái gì cũng đáng chán, cái gì cũng đang chờ sụp đổ, tan biến. 

Một đứa bé nhìn rổ kẹo nhiều màu thì thích, cảm nhận nhiều màu theo cách nào đó của nó để mê, còn mình nhìn thì nghĩ hai chuyện mà lạnh xương sống: màu đó là màu hóa chất không an toàn, ăn đường ngọt vô thì chỉ chờ chết thôi. Chính vì mình hiểu quá sâu sắc nên mình nhìn rổ kẹo là lạnh người, trong khi đó một đứa bé thì thích mê, đang khóc mà thấy rổ kẹo là nín liền. 

Phàm phu cũng vậy, cái biết của mình về bản thân, về cuộc đời, về trăng sao hoa lá toàn là những cái biết kích thích phiền não, biết theo cách đó thì trong kinh gọi là biết những điều không đáng biết. Còn điều đáng biết mình không biết, chẳng hạn như mình không biết mọi hiện hữu là khổ, không biết mọi ưa thích là nguồn khổ, không biết sự vắng mặt của khổ và tập là cứu cánh giải thoát, không biết lý tưởng Bát Chánh Đạo là con đường diệt khổ. 

Có một chuyện rất căn bản, (một tu sĩ hay Phật tử khi thờ Phật trên đầu thì không thể không biết), đó là dù sanh cảnh giới nào đi nữa thì hết tuổi thọ phải đi qua cảnh giới khác. Tất cả những gì mình thấy là vị ngọt là do hoàn cảnh sống cho mình cảm giác đó thôi chứ không có gì là giá trị tuyệt đối. Phân người, có những loài động vật rất thích nhưng mình chỉ nghe nói thôi là ớn. Một gói tả con nít liệng bên đường, tôi liếc thấy là lạnh xương sống rồi, trong khi đó có những loài đi kiếm cái đó để ăn. Cũng con người như nhau mà có người nhìn soirée thì thích, nhìn thỏi son hộp phấn thì mê, thì mơ ước, trong khi với tôi thì có cho cái soirée hay cả rổ son phấn tôi cũng dửng dưng. Chỉ cần mang thân nữ thôi, nhìn mấy cái đó là họ quýnh lên rồi, chịu không nổi. 

Chúng ta thích cái này ghét cái kia không phải do giá trị bản thân vật đó, mà do tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý và hoàn cảnh sống hiện tại. Ba nhân duyên này khiến cho một người thích hay ghét cái gì đó trong đời. Ví dụ do nghiệp xưa khiến tôi làm con chó, do khuynh hướng tâm lý tôi là người tham ái nhiều, thích ăn uống hay không thích ăn uống, con chó không có tham ăn bằng con heo, con heo là phải ủi, phải đi kiếm ăn, con chó thì khi nào đói mới ăn. Có những loài mình nghĩ đến nó là nghĩ đến chuyện ăn, con heo kiếm ăn suốt đời, con gà bơi suốt đời. Tiền nghiệp cho chúng vô cảnh giới đó và khuynh hướng tâm lý làm chúng thích cái đó. 

Và còn do hoàn cảnh hiện tại nữa, ví dụ tôi là người rất thích ăn uống, nhà tôi trước đây ở mặt tiền Bàn Cờ, Vườn Chuối, mỗi chiều quanh đây người ta bán đồ ăn ê hề tha hồ ăn, nhưng nếu tôi vô thiền viện ở Miến Điện, một ngày chỉ được ăn điểm tâm sơ sài, buổi trưa ăn được thì ăn, không ăn được thì ráng chịu, buổi chiều chỉ có nước trái cây. Thế là từ từ rồi quen, quen rồi không thích nữa, thấy ăn chiều nặng nề. 

Trong ba nhân duyên trên, sửa được hai, chỉ có tiền nghiệp là không sửa được. Khuynh hướng tâm lý sửa được bằng ‘sửa được bằng ‘yoniso manasīkāra’: ‘như lý tác ý’, ‘khéo tác ý’. Hoàn cảnh sống thì có thể thay đổi bằng 2 cách là khéo tác ý và chọn cảnh mà sống (trú xứ thích hợp). Xem bài kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc, số 2 Trung Bộ Kinh, trong đó Phật dạy 7 cách đối phó hay làm việc với phiền não, có thứ ta phải giáp mặt chịu đựng, có thứ ta phải tránh né từ xa, có thứ ta phải dùng trí suy xét v.v…

Khéo tác ý tức khéo suy nghĩ, còn gọi là trí tuệ. Do không hiểu sâu về dòng luân hồi nên mình mới thích cái này cái kia, nên mới hình thành vòng Duyên khởi, tức là, do không thấy hết các khía cạnh của cái gọi là khổ, gồm có ba: khổ khổ là sự có mặt của những gì khiến ta khó chịu; hoại khổ là sự vắng mặt những gì khiến ta dễ chịu; hành khổ là sự lệ thuộc nhân duyên mà có của pháp hữu vi, danh sắc, của hiện hữu bản thân.

Chi pháp của khổ khổ (dukkhadukkha) là thọ ưu, thọ khổ.

Chi pháp của hoại khổ (viparinamadukkha): sự thọ lạc, thọ hỷ mất đi là khổ, ví dụ đang ăn ngon mà cắn phải miếng ớt thấy điếng người, tức vừa là sự có mặt của khổ khổ mà cũng biến mất sự ngon miệng, tâm tham thọ hỷ biến mất; hoặc như trường hợp đang ngồi quạt mát mà bị cúp điện.

Chi pháp của hành khổ (saṅkhāradukkha) là tất cả những gì còn lại trong bảng nêu chi pháp, trừ Niết bàn và chế định.

Khổ một chỗ là trong room này tôi không biết có bao nhiêu người học A-tỳ-đàm, giảng Duyên khởi mà không có A-tỳ-đàm chỉ cắn lưỡi thôi. Mong rằng bà con nào chưa học A-tỳ-đàm thì làm ơn. Quí vị tưởng tượng đi, nếu thấy khoa học là cần thiết thì không thể nào dốt toán lý hóa được hết, đó là những thứ căn bản để sống ở đời. Trong Phật pháp cũng vậy, học gì cũng phải có căn bản A-tỳ-đàm. Có căn bản A-tỳ-đàm thì coi kinh cũng dễ, tu thiền cũng dễ. Những người đam mê A-tỳ-đàm nghe điều này sẽ rất là sốc: Học A-tỳ-đàm để hiểu mọi sự là cần xét lại. Học để ôm giữ làm báu vật là sai tinh thần A-tỳ-đàm, sai với Phật pháp. 

Ví dụ, người dốt không biết gì hết, nghe ông thầy giảng về Tứ Niệm Xứ: “Nhớ nhen con, đây là thân, đây là thọ, đây là tâm, là pháp… Thầy thấy khuynh hướng tâm lý của con là hợp với thân quán, thọ quán… Đây là thất giác chi nghen con đây là hỷ giác chi, trạch giác chi, niệm giác chi, định giác chi…” nghe thấy ghê gớm! Tới hồi học Vi diệu pháp mình biết thực ra 37 Pháp trợ Bồ đề cái này chính là cái kia hoặc trong cái này có cái kia, nên những con số 5, 6, 3, 7 tùy chỗ mà nói. Phải học A-tỳ-đàm để thấy rằng ngay cả Phật trí của Thế Tôn vẫn là sự lắp ráp, hết sát-na này tới sát-na khác, và báo thân của Thế Tôn cũng là mấy chục sắc pháp đó trộn lại thôi. 

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Đức Phật dạy: Này các tỳ kheo, tất cả các hành là vô thường, vì nhân tạo ra chúng là vô thường và từ đó bản thân chúng cũng vô thường. Ví dụ như trái cam, nhân nào tạo ra trái cam? Cũng là đất nước, nắng, gió, mù sương… thành ra trái cam non. Trái cam non mà lấy chân chà là nó nát; nếu thành trái cam lớn, không hái thì chín rớt xuống đất mềm rục, đạp lên thì bể, hoặc tự khô, gặp mưa nắng cũng mục. Nhân tạo ra nó là lắp ráp, bản thân nó cũng không trường cửu với trời đất, trăng sao được. 

Phật trí cũng vậy, Ngài vì có bi, có trí, có dũng, thương đời, thương người mới tu các hạnh lành để thành Phật. Những hạnh lành đó cũng là tâm, tâm sở thôi. Khi thành Phật rồi, cái gọi là Phật, 32 hảo tướng đó cũng là sắc pháp thôi. Nhất thiết trí của Ngài cũng là danh pháp hữu vi thôi. Khi sống mãn thọ rồi thì tấm thân già yếu cũng phải bịnh đau, nằm xuống, dứt hơi và ra đi, danh pháp – tâm tử xuất hiện rồi thì cũng kết thúc mọi sự. Nhân tạo ra pháp hữu vi là vô thường mà chính chúng cũng vô thường là vậy đó.

Tất cả chư Phật đều dùng đề mục hơi thở trong lúc đắc đạo, ra khỏi tứ thiền rồi quán xuôi ngược 12 Duyên khởi, sau đó thành Phật. Xem chú giải kinh Đại Duyên Trường Bộ Kinh và chú giải kinh Sikhī trong phẩm Nhân Duyên (Nidanavagga) này để thấy điều tôi vừa nói.

Sau khi qua hai canh đầu tiên (Túc mạng và Sanh tử) đến canh thứ ba, Ngài thấy hoàn toàn bằng tâm dục giới để quán chiếu. Cái thấy của các Bồ tát lúc này là cái thấy của người có thiền, có thông, không phải tưởng tượng hay lý luận suông. Ngài quán chiếu ở đâu có thân này… sanh, hữu, thủ, ái từ đâu mà có (Xem phần [87]). Có đủ 6 căn thì có đủ 6 ái, có kiếp ta không đủ 6 ái nhưng về tiềm năng thì phàm phu nào cũng có đủ 6 ái. 

Có những loài động vật không đủ sáu giác quan, như con trùn chẳng hạn, nhưng cái không đủ này không phải là nó giống Phạm thiên, mà nghiệp của nó khiến cho nó không đủ thôi, nhưng tiềm năng kiếp sau của nó là có đủ nếu nó lên làm con chó. Phạm Thiên không đủ 6 căn là do phước của người ta, trên đó không cần nên không có, còn chúng sanh cõi Dục mà thiếu nghĩa là có vấn đề. Về mặt lý thuyết thì mình nhớ con số 6 thôi. Tứ thủ có từ 6 ái, 6 ái có từ 6 thọ (thọ trong lúc mình nhìn, nghe, ngửi, nếm, đụng). Mỗi lần ta nghe thấy cái gì, lộ tâm đầu tiên chỉ là chụp hình một cách máy móc chưa có một đánh giá nào, sau đó là 4 tâm lộ (cittavithi/ process of mind) để định hình xem đó là cái gì, định danh là để biết tên gọi của nó là gì, và trước đó là hai tâm lộ thu gom và tổng hợp các chi tiết để sau đó mới định hình và định danh. 

Thí dụ bên tay phải tôi cách một thước, tôi thấy một đống đá và một vũng nước mưa. Bên tay trái cách tôi một thước, cũng là một đống đá và một vũng nước, nhưng tôi nhìn và biết đây là cái hòn non bộ. Bởi vì sau khi tôi “chụp hình” đưa vô trong đánh giá thì cũng là đá là nước nhưng trật tự của nước và trật tự của đá ở đây phải gọi là hòn non bộ (giả sơn) mới đúng. Theo A-tỳ-đàm, khi nhìn thấy cái gì đó thì con mắt chỉ chụp hình thôi, còn giám định đánh giá đó là cái gì thì do 4 lộ tâm tiếp theo.

‘Samūhaggahana’: ‘tổng hợp hình ảnh’.

‘Atitaggahana’: ‘níu kéo quá khứ’. Mọi thứ sanh diệt liên tục theo một dòng chảy rất nhanh. Để gọi là một cái hoa thì phải gom lại những thứ trước đó, đúng ra nó đã trôi qua mất rồi, mình kéo nó lại, giống như quay chậm lại để nhận xét.

‘Atthaggahana’: ‘định hình’, ‘sắp xếp’

‘Namaggahana’: ‘định danh’

Sau khi xác định hình dáng xong rồi thì ta cho nó cái tên. Mọi sự diễn ra trong tích tắc, nhanh đến mức ta cứ nghĩ rằng nhìn là biết, nghe là biết. Khi nghe ban nhạc trình diễn, nghe ca sĩ hát, nghe người chơi trống, nghe người đàn organ, nghe người chơi saxophone hay clarinet, tất cả những âm thanh của các nhạc cụ đó trộn lại, chỉ cần có một hạt sạn trong đó là dân nhà nghề biết liền. Phải có kiến thức nhạc lý mới phân biệt được điều đó. Như vậy trong lộ tâm nhĩ môn, cũng phức tạp như khi ta nhìn – nhãn môn. 

Tâm lý lúc ngửi mùi cũng vậy. Chỉ nghe mùi thôi là biết đây là Chanel N5, Gucci, Versace, Prada… nghe là biết liền; hoặc biết đây là mùi mắm tôm, mắm tép, mùi dầu hắc; biết đây là mùi hoa lài hoa lý hoa ngâu. Quá trình cũng diễn ra y như vậy, mũi chỉ chụp hình, vô trong mới phân tích, mùi này là của một người tình xưa cách đây 17 năm về trước mà mình nghe trên tóc nàng; cái mùi dầu gió kim hiệu con lạc đà này là mùi cuối cùng từ người bà ngoại trong đêm xuống tàu đi vượt biên. Chỉ nghe cái mùi thôi mà nó kéo tất cả những cái gì quá khứ. Bao nhiêu tâm lộ diễn ra, atitaggahana, kéo cảnh quá khứ về, samūhaggahana, tổng hợp quá khứ, atthaggahana, định hình đây là mùi gì và namaggahana định danh tên của mùi này là mùi gì.

“Sabbabodhisattā hi ānāpānacatutthajjhānato vuṭṭhāya paccayākāre ñāṇaṃ otāretvā taṃ anulomapaṭilomaṃ sammasitvā buddhā hontīti”(Tất cả Bồ tát sau khi ra khỏi Tứ thiền hơi thở, quán chiếu lý Duyên Khởi theo hai chiều xuôi ngược rồi mới thành Phật). Câu này trong chú giải kinh Sikhīsutta cũng trong phẩm Nhân Duyên (Nidānavagga) này. Trong phẩm này có kinh Sikhī, Sikhī là tên một vị Phật quá khứ, một trong bảy vị gần nhất. Trước bảy vị này cũng có vô số Phật khác, và sau này cũng có vô số Phật khác. Ở đây Đức Phật chỉ nói bảy vị gần nhất thôi, đều giống nhau như vậy hết. 

Quí vị siêng học thấy mình còn khỏe còn trẻ còn nhớ được thì mấy câu này phải học thuộc lòng. Đặc biệt là kinh Kaccānagottasutta cũng trong phẩm này rất đáng thuộc lòng và tụng đọc mỗi đêm thay vì chỉ tụng các kinh tán thán Tam Bảo, cầu nguyện chư thiên hộ trì như xưa nay vẫn làm. Nội dung kinh này, Đức Phật gom tất cả ta bà thế giới vũ trụ, gom tất cả pháp môn tu hành, tất cả nhận thức cần tránh và cần có vào trong bài kinh chưa tới một gang tay của mình nữa. Ngài xác định toàn bộ vũ trụ thế giới này, tất cả chúng sinh trong đời này không phân biệt biên giới, không phân biệt cảnh giới đều lọt vào một trong hai quan điểm: chấp có và chấp không. Nếu thấy được Duyên khởi của các pháp hữu vi, mình không thể nào cho rằng mọi thứ không có, nếu mình thấy được mọi thứ có rồi phải mất mình cũng không thể nào nói rằng mọi thứ là trường cửu. Nghĩa là quan điểm Có, phải hiểu Có là có trong sự vô thường, mà Không là không theo khía cạnh mọi thứ tùy duyên mà có. 

Ví dụ chiếc xe, muốn nói có cũng được mà nói không cũng được nhưng nếu nói tuyệt đối có cũng không được mà nói tuyệt đối không cũng không được. Nếu nói tuyệt đối có thì cũng không đúng bởi không có cái gì trên đời này gọi là chiếc xe hết. Được gọi là xe bởi do nhiều món ráp lại chớ không có một cái gì đó mà bản thân nó là chiếc xe. Nếu nói rằng không thì cũng không được, vì tuy nó là ráp, nhưng ráp xong nó vẫn là cái gì đó, rõ ràng mình không dám băng qua đường mà nhắm mắt, nhưng cứ khư khư cho rằng trong vũ trụ này có món gì đó một mình nó thôi mà gọi là xe thì cũng là sai.

Ngài xác nhận trí tuệ giải thoát ở đây là tự mình thể nghiệm, thân chứng, không vay mượn người khác. Bài kinh Kaccānagotta phải nói là tinh hoa của toàn bộ Phật pháp và xứng đáng để học thuộc lòng và tụng đọc mỗi đêm thay vì chỉ tán thán Tam Bảo và cầu nguyện chư thiên hộ trì. Bây giờ mình lật cuốn kinh tụng của VN hoặc cuốn Nhật Hành cư sĩ thì toàn là nội dung đó. 

Ở đây không phải là tôi chê, nhưng tôi nghĩ ngày xưa các vị tôn đức khai sơn nhắm vào quần chúng đám đông, chớ nếu các vị Phật tử VN trong room này có cầm trong tay một bộ hai cuốn Kinh Tụng của Thái Lan, một cuốn dành cho tỳ kheo, một cuốn dành cho Sadi thì hết hồn. Kinh tụng của người ta là Tam tạng tóm tắt, chớ không phải như kinh tụng của mình toàn là cầu an cầu siêu, cầu cho các vị Phật tử nào là sống lâu, sắc đẹp, tấn tài tấn lộc, thạnh lợi phong lưu, sang cả v.v… 

Một người sơ cơ mới vào cửa đạo gặp quyển kinh là họ bỏ chạy mất dép khi thấy kinh vậy có gì đâu mà tụng đọc mỗi ngày. Tại sao mình không hoằng pháp hiệu quả? Cái lỗi của mình phải nói là quá sơ ý trong chuyện đó. Tôi biết tôi nói đụng chạm nhiều người nhưng không thể không nói. 

Sẵn đây tôi cũng nói một chuyện lạc đề trước khi đi vào nội dung lý Duyên khởi. Mãi đến chiều hôm qua tôi mới nhận được bộ sách vừa in xong là quyển Chuyện Phiếm Thầy Tu và quyển Triết học A-tỳ-đàm, có điều đáng buồn và điều đáng vui. Vui là quyển Triết học A-tỳ-đàm được Nguyễn Quốc Bình chăm sóc bản thảo rất kỹ, những ghi chú trong đó bằng tiếng Hán, tôi chỉ để Hán Việt phiên âm thôi, thì Nguyễn Quốc Bình đã tìm cách scan toàn bộ phần chữ Hán nguyên văn vào trong đó, cả chữ Tây Tạng, Sanskrit, tiếng Đức và tiếng Pháp nữa, rất là tốt. Trong nguyên tác thì có mà chúng tôi không biết cách nào bỏ vào bản thảo dịch. Cái đáng buồn là quyển Chuyện Phiếm Thầy Tu bị trong nước cắt. Các vị tưởng tượng mình sinh ra con có hai tay hai chân, bàn tay nó có năm ngón, bàn chân có mắt cá có đầu gối, có ống quyển, có bánh chè, tự nhiên người ta xẻo một miếng, đọc thấy kỳ kỳ, sẵn đây nói để bà con biết ghi nhận giùm. Bản gốc thì in nguyên vẹn còn bản in chính thức thì bị xén. Hết phần lạc đề giờ trở lại kinh.

Chúng tôi có nói rằng sau khi giảng kỹ bài kinh đầu tiên thì toàn bộ các bài sau không giảng nữa, mấy bài sau cứ theo bài một mà hiểu. Đêm trước chúng tôi nói dở dang một vấn đề, đó là trong toàn bộ đời sống chúng sinh chỉ có 2 phần: Nhân và Quả. Quả ở đây chỉ cho 6 căn của mình, do đời trước mình có 6 ái cho nên đời này mình có 6 căn. 

Sáu ái là gì? Sáu ái là thích trong cái mình thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng và suy tư. Giác quan thứ 6 biết cảnh pháp, cảnh pháp là những đề tài suy tư thuộc tâm lý, tinh thần. Cảnh pháp trong 6 trần đối với người chỉ biết hưởng dục thì chính là 5 cảnh dục trong lúc hồi tưởng hay mong đợi. Ví dụ, cảnh sắc là cái gì mình thấy, cảnh thinh là cái gì mình nghe, cảnh khí là cái gì mình ngửi bằng mũi, cảnh vị là cái gì mình biết bằng lưỡi, cảnh xúc là cái gì mình biết bằng xúc giác. Còn về cảnh pháp, đối với người có tu thiền, có hành thiền Chỉ thiền Quán thì cảnh pháp vượt khỏi năm dục. Đối với người chỉ biết hưởng dục thì cảnh thứ 6 đó vẫn tiếp tục là năm dục nhưng trong hình thức là hồi tưởng hay mong đợi. 

Với người có tu thiền Chỉ thiền Quán thì cảnh thứ 6 của họ chính là cảnh tốt, ví dụ như tôi rải tâm từ, tôi niệm Phật, tôi tu hơi thở hay quán Tam tướng, Vô thường, Khổ trong danh sắc, trong năm uẩn, trong thân tâm. Còn đối với người không biết Phật pháp thì cảnh thứ 6 của họ vẫn là năm cảnh dục trong lúc hồi tưởng, mong đợi. Nói là tôi sống bằng 6 căn nhưng thật ra có lúc mắt tôi thấy cảnh sắc, có lúc tai tôi nghe, có lúc mũi tôi ngửi mùi, lưỡi tôi nếm vị, có lúc thân tôi xúc chạm v.v…; nhưng có lúc năm giác quan vật chất không làm việc thì tâm thức của tôi chỉ biết cảnh thứ sáu, cũng năm cảnh dục đó nhưng mà từ xa. Thí dụ tôi nhớ hôm qua tôi ăn gì, tôi nhớ chuyện buồn trong quá khứ hoặc sắp xếp trù hoạch toan tính trong tương lai, nhưng vẫn liên hệ quẩn quanh trong năm cảnh dục. Chỉ riêng người có tu học thì cảnh thứ 6 này mới thoát khỏi năm dục. Tức là có lúc năm dục được biết qua 5 sắc thần kinh sinh học, có lúc năm cảnh dục được biết qua giác quan thứ 6. Như vậy 5 căn chính là tâm quả, có được từ đời quá khứ.

Ngay trong đời sống này, khi con mắt tôi nhìn thấy gì, cái thấy đó là tâm quả, sau cái thấy đó tôi thích hay ghét, bực mình hay bất mãn, đó là nhân. Bản thân cái biết của các giác quan là quả, còn tâm trạng thích thương, ghét sợ là nhân. Khi biết cảnh bằng tâm thiện thì ta đang gieo nhân lành cho quả vui tương lai. Biết bằng tâm xấu thì gieo nhân khổ. Nhân nào cũng là nhân sinh tử, nhưng nhân thiện nên gieo vì nhờ vậy đường sinh tử dễ chịu hơn và cuối cùng cũng nhờ nhân thiện mà thành thánh và giải thoát. Nếu chỉ biết làm thiện mà không cầu giải thoát thì tiếp tục sinh tử như vô số kiếp xưa giờ.

Hôm nay, chỗ tôi đang ngồi, bên ngoài lạnh không thể chịu nổi, nhưng nhờ ngồi trong nhà có sưởi, chỗ ngồi cũng dễ chịu, giảng xong thì có bữa điểm tâm nhẹ nhàng thôi nhưng dễ nuốt. Nếu như trong bối cảnh lạnh lẽo này mà không có sưởi, không có chỗ ngồi đàng hoàng, không có wifi làm việc với bà con, không có điều kiện gieo nhân lành thuyết pháp, rồi không biết lát nữa đói ăn cái gì thì quí vị tưởng tượng, cuộc sanh tử khổ lắm. 

Ở đây vào những ngày mùa đông tuyết rơi, nhìn mấy con mèo hoang ngồi trước nhà chờ có gì cho nó mà tôi thấy sợ. Lỡ như mình chết rồi mình chun vô làm con của nó thì sao trời. Vì vậy cứ phải gieo nhân lành để đời sau cũng sanh tử, nhưng đời sống dễ chịu hơn. Làm thiện mà có lòng cầu giải thoát thì cuối cùng nó đưa mình có thánh trí giải thoát. Không biết làm thiện thì khổ thiên thu, còn làm thiện mà không cầu giải thoát khi hưởng hết quả báo đó thì chun xuống làm trùn, làm dế, làm sâu. Khổ mà không biết mình khổ mới mệt. Thấy người ta khổ mà tôi ngán giùm. Thấy người ta làm dâu, tôi sợ lắm, rồi những kiếp làm gái phong trần bị người ta giày xéo, hoặc làm đàn ông mà không biết Phật pháp, rồi cứ một đời cúi đầu cung phụng cho vợ con, thê thiếp, mất đi cái chí nam nhi trượng phu cũng là một bi kịch nhân sinh. 

Hễ luân hồi là phải khổ thôi. Cứ nhớ giùm một chuyện là bạn lành khó kiếm lắm. Bởi vì theo lực đẩy, sức hút tự nhiên của dòng sinh tử, làm ác dễ hơn, sống bất thiện dễ hơn, nên người lành khó kiếm hơn người ác. Bản thân mình khó có cơ hội nghĩ đến chuyện làm thiện mà mình cũng khó tìm được người lành bên cạnh mình nên cơ hội làm ác rất lớn. Cơ hội làm ác lớn nên cơ hội sa đọa cũng nhiều. Đời sống này là biển khổ, bởi vì việc ác dễ hơn việc thiện. “Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng” (làm thiện khó như leo cao, làm ác dễ như xuống thấp). Nếu nói theo ngôn ngữ bây giờ là làm thiện khó như leo núi, làm ác dễ như trượt tuyết. Dù trong thời tiết lạnh hay nóng, chỉ nghe leo núi là mình đã thấy mệt rồi, mỏi chưn đau lưng rồi, còn trượt tuyết thì khỏe re vì trượt xuống.

Trong đời sống sinh hoạt thường nhật của mình chỉ có nhân và quả, quả là năm căn; nhân là cái thiện hoặc cái ác; đàng sau năm căn đó, thấy là quả, nghe là quả, ngửi nếm đụng là quả. Nhân là sau cái thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng đó mình có tâm thiện hay tâm ác. Nhân nào đi nữa, thiện thì đưa mình lên cõi vui rồi cuối cùng cũng trở lại bản tánh ác của mình; còn nhân ác thì khỏi phải nói, hễ làm ác thì bị khổ. Suốt đời sống sanh tử của mình vô số kiếp cứ: nhân quả, nhân quả, thiện ác, buồn vui, thiện ác, buồn vui… trộn lại làm nên cái gọi là Duyên khởi. Trong một phút mình sống là một sự kết nối liên tục chằng chịt của nhân và quả.

Từ đâu có chuyện thích làm thiện, thích làm ác? Là bởi vì không biết Bốn Đế. Do Vô minh trong Bốn Đế nên mới dẫn đến chuyện làm thiện làm ác, từ chuyện làm thiện làm ác này mới dẫn đến đi cõi này cõi kia. Hôm qua tôi có nói 6 căn, 6 xúc, 6 thọ; con số 6 này rất quan trọng. Trình độ càng thấp thì việc tiếp nhận thế giới chung quanh phải cần đến nhiều giác quan. Đây là câu thần chú cần phải nhớ. Đời sống càng thô, càng thấp mới nhờ cậy, chìm sâu trong sinh hoạt của 6 căn. 

Ví dụ, ở cõi Dục, chúng sinh thích nhìn, thích nghe. Đời sống ở cõi Dục là quá trình làm việc của 6 căn. Ở cõi Phạm thiên thấp nhất chỉ có 3 căn. Ở các cõi cao như Vô Tưởng không có căn nào. Ở cõi Vô Sắc chỉ có ý căn. (Ý căn là tâm, là thức, biết được cảnh pháp là ý căn, trong trường hợp này). Người tu thiền Chỉ (Samatha) tạm đóng các căn để tập trung trong đề mục, trau dồi định tâm. Người tu thiền Quán (Vipassana) thì hạn chế tối đa việc sử dụng các căn, luôn biết rõ chúng đang ra sao, không có ý dùng chúng để truy tìm ngoại trần.

Trên đời chỉ có 6 cảnh tức 6 đối tượng để biết. Tất cả những hình dáng, hình ảnh, màu sắc, phải biết bằng mắt. Tất cả những âm thanh tiếng động phải biết bằng tai (thính giác). Tất cả những mùi dễ ngửi hay khó ngửi, gọi là cảnh khí. Tất cả những gì có thể nếm bằng lưỡi, gọi là cảnh vị. Tất cả những gì có thể biết bằng sờ chạm, gọi là cảnh xúc. Ngoài năm thứ này ra, ta chỉ có thể nhận biết bằng mind, consciousness, cái đó gọi là tâm. Toàn bộ thế giới này chỉ có 6 cái này. 

Ngôi sao mình xài không được nhưng có thể biết nó bằng hai cách: biết bằng mắt, biết bằng tâm. Sông hồ biển cả đại dương mình có thể biết được bằng bao nhiêu cách? Đang đứng bên bờ biển thì mình có thể thấy nó, có thể nghe nó, có thể ngửi mùi của nó, có thể nếm vị của nó, có thể sờ chạm vào nó, có thể suy tưởng về nó, như vậy có thể biết được biển qua 6 cách. Nhưng nếu tôi đang ở Mông Cổ, Tây Tạng, Thụy Sĩ, xứ này không có biển, bốn phía biên giới đều là đất liền, lúc này tôi chỉ biết đến biển bằng hai cách: 1/Suy tưởng về nó, nhớ lại một chuyến đi nào đó của tôi 2/ Thấy gián tiếp qua clip, video, hình ảnh chụp trên sách báo. 

Toàn bộ thế giới này từ những ngôi sao biền biệt ngút ngàn trên không trung, cho đến một chiếc lá, một sợi tóc, một mảnh rong rêu, con trùn, con dế, con ong cái kiến, con người, tổng thống, giáo hoàng, ăn mày, gái điếm… tất cả mình chỉ biết nó bằng 6 cách này, không có cách thứ bảy. Về sau các nhà A-tỳ-đàm bên Bắc Truyền thêm hai cái nữa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy thì hai cái đó được sinh ra từ cái thứ sáu. Tất cả những gì không thể biết bằng 5 giác quan vật chất thì gọi là cảnh pháp, chỉ có thể biết được bằng ý căn, tâm, thức thứ 6.

Trình độ càng thấp người ta bắt buộc phải sống bằng nhiều giác quan, càng lên cao thì người ta không cần nữa. Vì sao? Bởi vì sự hiện hữu nào cũng là vô ích, biết cái vô ích cũng chỉ là sự vô ích. Ví dụ như bây giờ tôi bỏ quí vị vào trong nhà kho toàn là những nùi giẻ rách. Quí vị biết miếng giẻ này lấy từ cái áo vest, miếng giẻ này từ cái quần, miếng này từ áo trong, miếng giẻ này bằng lụa, miếng này bằng cotton, miếng giẻ kia bằng lụa, miếng giẻ này từ vải của TQ v.v…, biết cho đã thì cũng chỉ là nùi giẻ, tất cả cái biết này cũng chỉ là vô ích. Đó là lý do tại sao trình độ càng cao người ta thấy không cần thiết nữa, thấy cũng là sự vô ích, nghe cũng là sự vô ích, đó là lý do Đức Phật kêu gọi mình viên tịch không sanh tử nữa, bởi mọi hiện hữu chỉ là sự vô ích. 

Trình độ càng thấp thì sống lại càng cần đến năm giác quan. Vậy tại sao các vị Phật không ra đời trên cõi Phạm thiên? Chư Phật phải ra đời trong cõi Dục, vì đây là điều bắt buộc, chỉ có trong cõi Dục thì các ngài mới đủ 6 giác quan để hoằng pháp độ sinh, chớ còn nếu các ngài ở cõi cao đâu có độ được mấy người ở cõi thấp. Các ngài phải đi bát để cho người ta cúng dường, phải ở cõi Dục mới độ được mấy người mê ăn, mê gái, mê trai, mê hưởng thụ, bài bạc… Ngài cũng phải có bịnh, có đói, có già. Trong thân nhân loại Ngài có thể làm việc với Phạm thiên và độ được các loài trong cõi Dục giới, chớ còn ở cõi Phạm thiên thì quá xa lạ với chúng sinh.

Trình độ càng thấp thì càng vật lộn với năm trần nhiều hơn. Trong pháp môn Tứ Niệm Xứ, Đức Phật kêu gọi chúng ta hạn chế không đi kiếm cái gì đó để nhìn, chỉ quan sát cái gì đang xảy ra. Khi không thể tránh được cái nhìn thì biết mình đang nhìn cái gì. Khi không thể tránh được cái nghe thì biết rõ mình đang nghe cái gì. Khi không thể tránh được cái mùi ngửi, cái vị, cái xúc chạm thì biết rõ mình đang ngửi cái gì, đang nếm, đang đụng cái gì. 

Người tu Tứ Niệm Xứ thứ thiệt là không đi tìm cái để biết mà chỉ theo dõi cái mình đang biết. Chuyện mình vật lộn chìm sâu trong năm trần rõ ràng là một dấu chỉ cho biết mình đang sống trong trình độ thấp. Sống trong trình độ cao thì mình thấy chuyện vật lộn với năm trần không cần thiết, vì vật lộn với năm trần chỉ có một là gieo nhân sinh tử, hai là mệt nhoài. Khi biết bản chất thế giới này thì không có cái gì để mình thích, không có cái gì để mình ghét, và khi đó thì chuyện biết chỉ là mệt mỏi thôi. Chính vì mình còn thấy thế giới này theo cách thấy kích thích phiền não (áo quần, xe cộ, hàng hiệu), còn nhìn nó với khía cạnh đây là hôi thúi khó ngửi khó nếm…, mới thấy trên đời có cái mình ghét, có cái mình thích. 

Người thật sự hiểu đạo biết rằng mọi hiện hữu là khổ thì sự hiện hữu dưới hình thức nào đi nữa cũng là sự hiện hữu trong nhà tù, trong bệnh viện. Chẳng hạn sáng nay tôi nghĩ một chuyện mà giựt mình, năm nay tôi 46 tuổi, không còn trẻ nữa, nhưng tạm thời tôi không bịnh gì hết, tôi nhớ sáng nay tôi có buổi giảng, tôi nghĩ bụng phải ráng giảng cho xong để đừng quay lại vụ này nữa mệt quá. Chỉ nghĩ bao nhiêu đó thôi, tôi không có gì để tôi mệt. Trong khi đó tôi nghĩ, có người biết sáng nay họ phải đi lọc thận, có người biết sáng nay là ca mổ sống chết của mình sẽ bắt đầu lúc 10 giờ mà bác sĩ báo trước là kết quả 50/50, có người biết sáng nay mình phải chịu tử hình, có người biết sáng nay mình phải ký giấy bán nhà, có người biết sáng nay mình phải ra tòa li dị, hay có mặt ở một nơi nào đó để đôi chối. 

May mắn thay là một sáng thức dậy mình thấy hôm nay không có việc gì để lo, không có cuộc hẹn nào làm cho mình khó chịu, bữa nay không có chuyện gì nặng nề để mình phải giải quyết. Phúc thay cho ngày nào mình thấy đó là ngày tẻ nhạt. Ngày xưa tôi sợ những ngày tẻ nhạt nhưng bây giờ tôi lại yêu những ngày đó, bởi những ngày vô vị tẻ nhạt đó chính là những ngày tôi được vô sự. Vô vị chính là vô sự. Vì sao vậy? Vì càng có nhiều việc thì càng có phiền phức. Mọi hiện hữu là khổ, ác dễ làm hơn thiện, nên buồn khổ luôn nhiều hơn hạnh phúc an lạc. Đó chính là cái đáng chán của đời sống, chưa kể đến khía cạnh phù du của nó. Ác dễ làm nên lúc nào cái khổ cũng nhiều hơn, cái thiện đã khó làm nên cái vui thì ít, đã ít rồi mà lại vô thường mới đau chứ. 

Cái vui ngắn chẳng tày gang. Yêu nhau cưới nhau vui ba tháng, buồn ba năm, khổ suốt đời. Đồ đạc cũng vậy, những tín đồ shopping nói với tôi: vui nhất khi mua món đồ là 15, 20 phút thôi, về đến nhà thì người nghèo đem ra xài, còn người giàu thì liệng vô tủ, để hoài trong tủ dăm tháng vài năm lôi ra còn mới nguyên, rồi thì tiếp tục mua cái khác. Nếu là hành giả, mình thấy cái hạnh phúc ngán lắm. 

Thương ai đó, cứ ngồi gần họ một cách tỉnh thức, coi vì sao mình thương họ, rồi bắt đầu coi họ giở trò, những cái xấu của họ bắt đầu lòi ra. Ngày xưa làm duyên làm dáng, bây giờ, anh lấy giùm em cái kia, anh hút bụi giùm, anh lau nhà giùm, anh rửa giùm em đống chén hồi tối chưa rửa, giặt giùm em đống đồ chưa giặt, chưa kể có con, con làm xấu, nhà cửa bề bộn. Mình chăm sóc một căn phòng là đủ chết rồi, chưa kể một căn hộ chung cư, một villa, đủ chuyện trong đó: điện, nước, cỏ, rác. 

Muốn có được một tiếng đồng hồ ngồi trên sofa, có lò sưởi, có màn hình phẳng, có người ngồi kế bên để mình thương, phải trả giá kinh khủng lắm. Chỉ có ở khách sạn là khỏe, nhưng tiền đâu mà trả, chỉ ở được một hai đêm thôi. Nếu tôi không biết đạo mà tôi là một triệu phú, tôi nói thật, tôi vẫn thích ở khách sạn thôi. Ở chán tôi kéo vali tôi đi. Bữa nào ngủ trễ tôi treo tấm bảng ‘do not disturb’. Bữa nào tôi muốn dọn phòng thì tháo tấm bảng ra cho người ta vô dọn. Bữa nào tôi chán tôi đi nơi khác. Tôi thích làm người viễn khách sống ở khách sạn hơn là làm chủ một căn nhà trong cuộc đời này. Đó là lý do vì sao Đức Phật dạy mình phải sống trong tâm trạng vô ngã quán, thấy mình là khách trọ. Trong 40 khía cạnh tùy quán Tam tướng, trong đó có khía cạnh ‘parato’: danh sắc chỉ là khách lạ.

Tôi kể hoài câu chuyện, có ông khách lỡ đường vô chùa xin ngủ nhờ qua đêm, trụ trì dắt khách vào nhà kho có đống cỏ khô bảo ngủ ở đó. Khách cứ trăn trở, ngứa, xót, ngủ không được, mới kêu cửa trụ trì hỏi xin chỗ ngủ khác. Trụ trì nói chỉ có nhiêu đó thôi, khách nói: “Sao thầy không nghĩ đến chuyện kiếm cái giường hay salon ngủ cho đàng hoàng sao ngủ chi khổ vậy?” Trụ trì nói, “Giường của ông đâu mà ông không nằm mà đi hỏi tôi.” Khách đáp: “Tôi là khách làm gì có giường ở đây.” Trụ trì cười nói, “Ông là khách ông không có giường, còn tôi mấy chục năm nay lúc nào cũng nhớ tôi là khách nên tôi không sắm thứ gì hết, không chỉ riêng ông là khách ở đây mà tôi cũng là khách.” Câu chuyện có thể không có thật nhưng tôi rất thích câu chuyện này. Tôi sợ chuyện làm chủ một cái gì đó lắm. 

Năm nay tôi làm thầy chùa 36 năm rồi, tôi có cái may mắn là tôi có lòng hiếu học, hôm nay tôi muốn đi đâu tôi đi thoải mái, không có lo. Thật lòng mà nói, tôi sợ tôi có cái vật chất nào đó mà tôi sợ mất. Một ngày nào đó tôi đang ở Miến Điện, một nhà ga châu Âu, một đêm tối nào đó ở xứ người mà tôi nghe người mệt mỏi, tôi sẽ sợ cái nhà mình ai lo, miếng đất mình ai lo, chùa mình ai lo, mình đi lâu quá rồi quan hệ Phật tử ở đó có xa mặt cách lòng hay không, lâu quá người ta không email, facebook, viber… cho mình, khổ chứ! Hạnh phúc trên đời này là phải sống hữu ích như mình muốn chớ không phải lang thang không mục đích, dính mắc quá nhiều cũng là một cái khổ.

‘anvatthacārika’: ‘lang thang không mục đích’

‘gehasita’: ‘dính mắc quá nhiều’

Nếu phải đi thì nên đi như gió, nếu phải ở thì nên ở như đốm nắng bên thềm. “Phong lai sơ trúc bất lưu thanh, nhạn quá hàn đàm vô lưu ảnh”.Đi như gió không phải đi nhanh, mà đi không vướng kẹt. Ở thì ở như đốm nắng bên thềm, khi mặt trời đã đi qua mái hiên thì nắng không còn. Đây chính là giáo lý Duyên khởi.

Chính do vô minh trong Bốn Đế nên có 3 Hành, từ đó là 6 căn, 6 xúc, danh sắc tái tục; còn đam mê trong 5 trần thì làm thiện ác gì cũng chỉ gieo mầm cho 6 căn. Sáu căn chính là sự hiện hữu của chúng sinh trong đời. Với người không tu tập thì khi 6 căn làm việc cũng là lúc họ đang gieo mầm sinh tử bằng 6 ái, tứ thủ, nghiệp hữu (thiện ác nói chung) (thiện ác nói chung). Nghiệp hữu chính là Hành, bản thân Ái cũng là Hành, gián hay trực tiếp. 

Nói chung, trong 12 Duyên khởi, chỉ có 2 phần Nhân và Quả. Vô minh, hành, ái, thủ, nghiệp hữu là nhân; những thứ còn lại là quả. Vẽ vòng tròn 12 Duyên khởi để thấy rõ điều này (vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc…). Làm thiện bằng tâm thiện Dục giới (tu thiền) thì gieo nhân sinh cõi lành có đủ 6 căn. Làm thiện bằng tâm thiện Sắc giới thì gieo nhân sinh cõi Phạm thiên sắc giới có 3 căn. Làm thiện bằng tâm thiện Vô sắc (tức là tu chứng thiền Vô sắc) thì gieo nhân sinh cõi Vô sắc chỉ có Ý căn. Làm ác thì gieo nhân sinh cõi Khổ có đủ 6 căn (trừ trường hợp đặc biệt).

Ở cõi Dục giới nếu không đủ 6 căn thì là do thiếu phước. Ở các cõi Phạm thiên, không đủ 6 căn là do không cần. Xem thế giới động vật, mình sẽ thấy có những loài không có mắt tai mũi họng gì hết, nó chỉ có một khả năng là tiếp nhận dưỡng tố để sống ngoài ra không có khả năng gì hết. Con trùn chỉ có bảy tế bào thần kinh nên nó y hệt như một rễ cây, nó chỉ biết tránh nhiệt độ quá cao hoặc thấp quá. Những loài cá ở biển sâu quá thì không có mắt, con chuột chù thì không thấy đường lúc ban ngày. 

Ở bên Úc có loại ngọc Opal, chỉ có trong lòng đất ở xứ nóng. Điều độc đáo là chỗ nào có đá Opal thì có loại rắn độc dài khoảng hai ba tấc, không thấy đường, chúng đi săn mồi bằng khứu giác và xúc giác. Nó cảm nhận nhiệt độ của con mồi. Con rắn cắn mình là do cảm nhận nhiệt độ, nó không mổ vào đất đá mà chỉ vào động vật vì nó cảm nhận được nhiệt độ của đối phương. Con dơi cũng vậy, nó cắm đầu vào vách đá nhưng không va vào, khả năng đó gọi là hồi thanh phản vị. Có những loài nhận biết thế giới không phải bằng tai bằng mắt mà bằng mũi, bằng râu. 

Ở cõi Dục, không đủ 6 giác quan là do thiếu phước chớ nơi bản thân con vật đó khả năng tham dục vẫn rất nặng, nó sẵn sàng để hưởng thụ cả 6 nhưng vì thiếu phước nên nó chỉ được tới đó thôi. Chung qui lại, toàn bộ đời sống của chúng ta chỉ là sự có mặt của 6 căn, có lúc thiếu có lúc đủ do phước hoặc do phiền não của mình. Do vô minh trong Bốn Đế nên mới dẫn đến ba Hành, do có Hành mới duyên Thức, Thức duyên Danh Sắc – những yếu tố tâm lý và sinh lý trong thời điểm đầu đời lúc đầu thai, tái tục. 

Nếu mình gieo nhân Dục giới thì ngay thời điểm đó mình chuẩn bị có 6 căn, còn nếu mình gieo nhân Sắc giới thì mình chuẩn bị có 3 căn hoặc 1 căn, nếu là cõi Vô sắc. Trong công thức: “…thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập”, ‘lục nhập’ ở đây phải ghi rõ là tùy cõi, có cõi đủ 6, có cõi không đủ 6. (Xem thêm trong cuốn Triết học A-tỳ-đàm) Toàn bộ những bài sau cứ vậy mà hiểu. Bài kinh thứ hai đã giảng xong, qua tới bài số 3, Con Đường.

CON ĐƯỜNG (Paṭipadāsutta)

“2)Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông về tà đạo và chánh đạo. Hãy lắng nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.”

‘sammāpaṭipadā’: ‘chánh đạo’ ‘micchāpaṭipadā’: tà đạo

‘vaṭṭasīsattā’: nguồn sinh tử. ‘vaṭṭa’: ‘luân hồi’, ‘sīsa’: cái đầu.

12 Duyên khởi theo chiều thuận là tà đạo, chiều nghịch là chánh đạo. Dù sống bằng tâm thiện hay bất thiện, chỉ cần hướng đến sinh tử thì gọi là tà đạo, lìa bỏ 12 Duyên khởi là chánh đạo, vì thiện hay ác đều là ‘vaṭṭasīsatta’(nguồn sinh tử). Thiện hay ác, chỉ cần hướng đến sinh tử, đều là vaṭṭasīsa nên được gọi là tà đạo.

Khi mắt tai mũi lưỡi thân ý biết 6 trần, Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, với người không tu hành thì Thọ duyên Ái, Thủ, Hữu… với người tu hành thì Thọ duyên cho Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ. Với người không tu hành, khi thấy dễ chịu là bắt đầu tham nổi lên, thấy khó chịu thì sân nổi lên; với người tu hành thì dễ chịu hay khó chịu đều là cảnh để tu hành. Cảnh xấu hay cảnh tốt, dễ chịu hay khó chịu đều là cảnh để mình chánh niệm.

Chánh niệm là gì? Bà con đừng có nghiên cứu những lý thuyết ghê gớm. Thiền sư nào đi nữa cũng phải dựa vào Tứ Niệm Xứ trong chánh tạng, còn kinh nghiệm của thiền sư nào thì cũng chỉ là góc độ cá nhân, đã là cá nhân thì luôn kéo theo đó những vấn đề cá nhân. Người đi đứng khó khăn khi hướng dẫn thiền thì không nói nhiều đến kinh hành, mà chỉ thích nói về ngồi; người thích đi đứng thì lại khuyến khích đi kinh hành, toàn bộ là vấn đề cá nhân. Chánh niệm là biết rõ mọi sự đang xảy ra như thế nào. Học giáo lý để biết mình là những gì cộng lại. Tu quán Vipassana để biết mình đang ra sao: what & how. Học để biết cái what, hành để biết cái how.

WHAT: thiện ác, buồn vui. Thiện lúc này là nhân vui cho tương lai. Ác lúc này là nhân khổ cho tương lai. Khổ lúc này là quả của ác quá khứ. Vui lúc này là quả của thiện quá khứ. Đó là WHAT, là bản chất của mình.

HOW là đang đi, đang đứng, đang thiện, đang ác, đang vui, đang buồn… Thay vì thấy là vui hay sợ thì nên ghi nhận rằng niềm vui đang biến mất, nỗi sợ đang biến mất, cơn giận đang biến mất…. Rất là hay! Thay vì biết đang giận, mình thêm ba chữ “đang biến mất”, thế là nó đang biến mất thiệt. Ban đêm ở một mình trong phòng, nghe tiếng động nào đó, cơn sợ nổi lên, mình niệm: “Nỗi sợ hãi đang biến mất.” Niệm này rất có lợi. Thứ nhất, mình nhận ra lý vô thường, thứ hai là có tác dụng với phiền não, hiệu quả tức thì, đang giận là mình thấy cơn giận đang biến mất, nỗi sợ hãi đang biến mất. Đang đi biết là đang đi, bước biết đang bước, biết đang xối nước, đang kỳ cọ, biết rõ. Những cái này không thể nào biết bằng lý thuyết được mà phải thực tập mới hiểu. 

Tại sao có pháp môn tu hành kỳ cục như vậy. Hãy thử một ngày như vậy đi, hạnh phúc lạ lùng lắm. Sống chậm lại, nó ra làm sao thì thấy như vậy, bảo đảm quí vị sẽ thấy an lạc, cái an lạc này giống như niềm an lạc của người tập thể dục. Mình thấy mấy người này ngày nào cũng chạy, được cái gì mà ngày nào cũng mặt đỏ kè, mồ hôi mẹ mồi hôi con mà sao ngày nào cũng đi. Hỏi họ, họ không giải thích được. Không có người nào trên thế giới này giải thích được cảm giác của người khỏe mạnh. Họ chỉ nói bụng tôi không dư mỡ, leo núi tôi không thở mà ông thì thở dữ. Tại sao mình thấy mệt, tại sao mình stress, tại sao mình u sầu…? Vì mình chất nặng quá nhiều thứ trong lòng.

Lúc chưa tu tập chỉ thấy sợ, giận, ghen, tức, tiếc là gánh nặng. Lúc thuần thục rồi sẽ thấy cả sự hưởng thụ cũng là gánh nặng. Trước đây thấy bữa ăn ngon là hạnh phúc, bây giờ thấy việc ăn uống là mất thời giờ. Khi thấy cả đau khổ và hạnh phúc là gánh nặng, lúc này cả đau khổ và hạnh phúc đều là những người khách, không phải là mình nữa. Khi ta quan sát chúng thì chúng không còn là ta nữa. Gánh nặng lúc này đã được đặt xuống. Đây là cách làm việc với 12 Duyên khởi.

Bước vào nhà tắm lúc đang nóng nực, mở một dòng nước vừa ý, sung sướng lắm, giờ mình thấy không còn sung sướng mà chỉ mất thì giờ. Thì giờ để làm gì? Để quan sát nó. Hành giả luôn sống bằng tâm trạng của người mẹ có nhiều con, phải lưu tâm chúng, không còn thời gian phấn son.

Những bài kinh khác y hệt vậy. Bảy kinh còn lại chỉ xác định một điều tôi vừa ghi đầu buổi giảng: Tất cả Bồ tát đêm cuối cùng trước khi thành Phật bỏ trọn canh đầu để dùng Túc mạng minh quán xét quả luân hồi, canh giữa dùng Sanh tử minh để quán nhân luân hồi. Canh cuối ra khỏi Tứ thiền hơi thở, quán chiếu 12 Duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch để thành Phật. (Chú giải kinh Sikhīsutta).

Cuối cùng Đức Phật xác nhận, chính Ngài cũng chứng quả Toàn Giác theo cách vừa nói.
________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t...

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại...

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,...

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta ...

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.