Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 7 - Tương Ưng Bà La Môn (3)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 7 - Tương Ưng Bà La Môn (3)

PHẦN CHÁNH KINH

[07] Chương VII Tương Ưng Bà La Môn
III. Phẩm Cư Sĩ

I. Cày Ruộng (S.i,172)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Magadha, trên núi Nam Sơn, tại làng Bà-la-môn tên Ekanàlà.

2) Lúc bấy giờ là thời gian gieo mạ, và Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja sắp đặt sẵn sàng khoảng năm trăm lưỡi cày.

3) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến nông trường của Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja.

4) Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja đang phân phát đồ ăn.

5) Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, rồi đứng một bên.

6) Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để khất thực, thấy vậy, bèn nói với Thế Tôn:

-- Này Sa-môn, tôi cày và tôi gieo mạ; sau khi cày và gieo mạ, tôi ăn. Này Sa-môn, Ông có cày và gieo mạ không; sau khi cày và gieo mạ, Ông ăn?

7) -- Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn.

8) -- Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, cái cày, cái lưỡi cày, cái gậy đâm, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Tuy vậy Tôn giả Gotama lại nói như sau: "Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn".

9) Rồi Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja nói lên bài kệ với Thế Tôn:

Ông nói là nông phu,
Ta không thấy Ông cày,
Người nông phu được hỏi,
Hãy lên tiếng trả lời,
Sao chúng tôi biết được,
Ông thật sự có cày?

10) (Thế Tôn):

Lòng tin là hạt giống,
Khổ hạnh là mưa móc,
Trí tuệ đối với Ta,
Là cày và ách mang,

Tàm quý là cán cày,
Ý căn là dây cột,
Chánh niệm đối với Ta,
Là lưỡi cày, gậy đâm.

Thân hành được hộ trì,
Khẩu hành được hộ trì
Ðối với các món ăn,
Bụng Ta dùng vừa phải,

Ta nhổ lên tà vạy,
Với chơn lý sự thật,
Hoan hỷ trong Niết-bàn
Là giải thoát của Ta.

Tinh tấn đối với Ta,
Là khả năng mang ách,
Ðưa Ta tiến dần đến,
An ổn khỏi ách nạn,
Ði đến, không trở lui,
Chỗ Ta đi, không sầu.

Như vậy, cày ruộng này,
Ðưa đến quả bất tử,
Sau khi cày cày này,
Mọi đau khổ được thoát.

11) -- Hãy ăn Tôn giả Gotama, Tôn giả Gotama thật là người nông phu. Tôn giả Gotama cày, sự cày đưa đến quả bất tử.

12) (Thế Tôn):

Ta không có hưởng thọ,
Vì tụng hát kệ chú,
Thường pháp không phải vậy,
Ðối vị có tri kiến.

Chư Phật đã loại bỏ,
Tụng hát các kệ chú,
Chơn thật đối với Pháp,
Sở hành là như vậy.

Bậc Ðại Sĩ vẹn toàn,
Cúng dường phải khác biệt,
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Trạo hối được lắng dịu,

Với những bậc như vậy,
Cơm nước phải cúng dường.
Thật chính là phước điền,
Cho những ai cầu phước.

Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối cho người có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!

II. Udaya (S.i,173)

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

2) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, cầm y bát đi đến trú xứ của Bà-la-môn Udaya.

3) Bà-la-môn Udaya lấy cơm đổ đầy bình bát của Thế Tôn.

4) Lần thứ hai Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ của Bà-la-môn Udaya...

5) Lần thứ ba, Bà-la-môn Udaya lấy cơm đổ đầy bình bát Thế Tôn và nói với Thế Tôn:

- Tham lam là Sa-môn Gotama, đến đi đến lại nhiều lần!

(Thế Tôn):

Nhiều lần và nhiều lần,
Chúng gieo vãi hạt giống.
Nhiều lần và nhiều lần,
Trời mưa đi, mưa lại.

Nhiều lần và nhiều lần,
Người nông phu cày ruộng.
Nhiều lần và nhiều lần,
Lúa gạo đến quốc độ.

Nhiều lần và nhiều lần,
Hành khất lại xin ăn.
Nhiều lần và nhiều lần,
Thí chủ lại bố thí.

Nhiều lần và nhiều lần,
Thí chủ sau khi cho.
Nhiều lần và nhiều lần,
Ðược đi đến thiên giới.

Nhiều lần và nhiều lần,
Người làm sữa vắt sữa,
Nhiều lần và nhiều lần,
Bò con tìm bò mẹ.

Nhiều lần và nhiều lần,
Mệt sức và lao khổ.
Nhiều lần và nhiều lần,
Kẻ ngu nhập bào thai.

Nhiều lần và nhiều lần,
Lại sanh rồi lại chết.
Nhiều lần và nhiều lần,
Họ mang đến nghĩa địa.

Họ được đường giải thoát,
Không đưa đến tái sanh.
Bậc đại trí, đại tuệ,
Không sanh đi, sanh lại.

7) Khi được nói vậy, Bà-la-môn Udaya bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama... Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

Chương 7: Tương Ưng Bà La Môn

CÀY RUỘNG (Kasibhāradvājasutta)

‘Kasi’: ‘cày ruộng’, động từ căn ‘Kas’: ‘cày’. Trong tiếng Pāḷi có chữ ‘ākāsa’: ‘hư không’ (space). Có chỗ giải thích “Hư không là chỗ mình không thể cày xới được”, giống như trong kinh nói lúc sắp niết-bàn Đức Phật có giảng một câu kinh (4 cái Không, Kinh Pháp Cú):

Trên hư không không từng có dấu chân chim.
Ngoài bát thánh đạo không có thánh nhân.
Vạn hữu không thể nào có sự vĩnh cửu.
Chư Phật không hề có sự dao động.

(Kinh Pháp Cú 255, Phẩm Phật Đà)

Ākāseva padaṃ natthi,
samaṇo natthi bāhire.
Saṅkhārā sassatā natthi,
natthi buddhānamiñjitaṃ.

Sở dĩ tôi nhắc câu kệ này vì có liên quan đến chữ ‘hư không’. Sở dĩ tôi nhắc chữ ‘hư không’ vì có liên quan đến chữ Kas (cày). Sở dĩ nhắc đến chữ cày vì đang học bài kinh ông Bà-la-môn cày ruộng. Nghe qua giống như lạc đề nhưng tôi đang giảng ‘liên khúc’. Hãy tập nhìn một chữ nhưng thấy ra cả trăm chuyện.

Theo Chú giải, ông Bà-la-môn này sau khi trở thành Phật tử một thời gian thì xuất gia và chứng A-la-hán. Một lần ông gặp Đức Thế Tôn trong lúc đang chuẩn bị hướng dẫn người làm cày ruộng, ông nói: “Tôi có làm mới có ăn, còn ngài sao không làm gì hết mà cứ đi xin hoài vậy”. Trong chánh kinh chỉ ghi như vậy, nhưng trong Chú giải thì nói ông này là một người đại trí, ông nói vậy chỉ vì muốn nghe Phật nói điều gì đó. 

Dĩ nhiên tôi đâu gặp Phật nhưng trong đời tôi gặp một vài người, nhiều khi tôi cũng bịa ra điều gì đó hỏi để tôi được lắng nghe. Tôi nhớ một chuyện xảy ra trong đời tôi, vào năm 1993, tôi gặp Hòa thượng Minh Châu trên sân Vạn Hạnh. Tôi chào và tôi tiếc lắm, con người này một câu nói cũng đáng. Tôi nhớ tôi có hỏi một câu: Bạch ngài, một tăng sinh Nam Tông trẻ như con nên chuẩn bị cái gì. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ câu nói của ngài, ngài suy nghĩ rất nhanh. Ngài nói: Nếu là Nam Tông, ngoài tiếng Pāḷi thì sư nên học tiếng Đức. 

Kinh điển Nam Tông tiếng Đức rất nhiều và phong phú hơn cả tiếng Anh nữa. Tôi nghĩ đây là một câu nói không phải nói qua loa mà là một sự thấm thía trao truyền nói bằng cả tinh thần trách nhiệm, làm tôi nhớ đến bây giờ. Tôi nghĩ rằng tôi có một cái tính (tạm gọi là tốt) là tôi hiếu học và rất trân quí người tài. 

Hồi đó tôi từng ở Lê Quang Định và thường gặp cụ Bùi Giáng. Muốn nghe cụ nói chuyện thì phải biết “lịch làm việc” của cụ. Sau 10 giờ sáng mà quán nhậu mở cửa thì cụ sẽ say bí tỉ tới khuya, trước 10 giờ sáng thì cụ còn tỉnh lắm. Thỉnh thoảng gặp cụ ngoài đường, một vài lần tôi đưa cụ qua đường. Những lần như vậy tôi hỏi “bác muốn đi đâu”, bữa thì ổng nói muốn đi Già Lam, bữa thì nói muốn đi chùa Dược Sư, ổng thường la cà những chùa đó vì sách vở nhiều, những lúc đó tôi hay tranh thủ hỏi này hỏi kia. 

Tôi kể chuyện đó là ý muốn nói, ông Bà-la-môn Kasi Bhāradvāja cũng vậy, nhìn Đức Phật là ông nghĩ con người này sẽ có cái gì đó hay ho nói cho mình nghe, và muốn được nghe Đức Phật nên ông mới hỏi câu trên. Đức Phật trả lời: Có chớ, ta có cày ruộng chớ, nhưng ta cày theo cách của ta. Lòng tin là hạt giống, khổ hạnh (sự tinh tấn) là mưa. Trí tuệ là cái cày, Tàm Úy là cán cày, Ý căn là dây cột…

Chú giải giải thích ‘ý căn’ (mano) là từ đồng nghĩa với chữ ‘tâm’ (cittaṃ). Tâm ở đây là chỉ cho Tâm Như Ý Túc, nói theo A-tỳ-đàm là các tâm đổng-lực, các tâm thiện-hiệp-thế hoặc thiện- siêu-thế. Trước khi thành Phật, Ngài dùng tâm đại-thiện-dục-giới, sau khi thành rồi Ngài sống phần lớn bằng tâm-tố, tâm làm những việc lẽ ra phải làm bằng tâm đại-thiện, nhưng tâm đại-thiện thì để lại quả báo còn tâm-tố thì chỉ có làm nhưng không để lại kết quả cho đời sau.

Bài kinh này hay là ở nhiều lớp (slice). Lớp đầu tiên, giống như một cách nói mẹo, Đức Phật nói mình cũng làm ruộng, làm ruộng ở đây chỉ cho sự tu tập. Ngài vốn là vua, Ngài đâu cần phải cày bừa cuốc xới, đổ mồ hôi, dù Ngài ở ngoài hay trong đạo, Ngài cũng không phải động tay với công việc nặng nhọc. Nhưng ở đây Ngài nói Ngài vẫn cày ruộng là ý muốn nói Ngài vẫn sống xứng đáng với sự cúng dường của cư sĩ, không phải là người đến giờ thì ăn còn ngoài ra thì trùm mền ngủ, mà Ngài đã sống xứng đáng với sự cúng dường của nhân thiên. Đó chỉ là lớp đầu tiên. 

Nằm sâu bên dưới, thật ra, nói một cách phũ phàng, cũng trong Tương Ưng này, Đức Phật xác nhận rằng ngày nào còn có mặt trong Tam giới thì ngày đó từng người trong chúng ta dù phàm hay thánh vẫn cứ là người nông phu trên cánh đồng sanh tử mà thôi. Vì trên cánh đồng đó người nông phu phải ‘đổ mồ hôi sôi nước mắt’, có khi phải đổ cả máu để đổi lấy hạt thóc lúa trên cánh đồng, “Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Chỉ để có một hột cơm trên mâm ăn thì bao nhiêu mồ hôi phải đổ ra. Dù phàm hay thánh hễ có mặt trên cõi đời này, chúng ta luôn là những nông phu. 

Có điều, có người thì có tiền thuê nhân công, công cụ phương tiện làm việc hiện đại, thu hoạch nhiều, người thì không có đất phải đi làm tá điền, khi trừ hết nợ nần thì không còn là bao, đó là nói theo nghĩa đen. Còn nói theo nghĩa bóng, hễ có mặt trong Tam giới này, có người phải đi tu thiền mới về được cõi Phạm thiên, phải làm được các phước thiện bằng tâm Thiện Dục Giới thì mới về được các cõi Nhân Thiên dục giới còn không thì sau khi sống bằng các tâm bất thiện, (cũng là một cách cày xới, nhưng là cách cày xới thất bại) thì sẽ dẫn về các đọa xứ. 

Chung quy lại, hễ còn có mặt trong cõi Tam giới này thì vẫn từng phút từng giây, từng ngày từng tháng, từng năm từng thời đoạn trong đời sống đều phải liên tục cày xới. Dù cho có trùm mền nằm thiêm thiếp, bán thân bất toại, nằm bất động, ngay cả trong phút đó anh vẫn là nông phu tiếp tục cày xới trên cánh đồng sinh tử bằng những gì anh nghĩ trong đầu. Nói theo A-tỳ-đàm, dầu tay, chân, miệng mình không làm việc nhưng hễ còn tâm thức thì rõ ràng là đang gieo nghiệp, nghĩa là đang cày bừa cuốc xới chuẩn bị mùa thu hoạch nào đó cho kiếp sau, đó là nói về phàm. 

Nói về thánh, hễ còn mang thân ngũ uẩn này thì vị đó còn phải chấp nhận sự sanh và diệt của danh sắc, nếu là vị thánh đó còn ở cõi Dục giới, nhất là cõi Người, còn mang thân này vị đó còn phải chịu đi đứng, tắm rửa, vệ sinh thân thể, quét nhà, v.v… Tôi không phải là thiền sư, không phải là hành giả, nhưng thỉnh thoảng khi đứng trong phòng tắm mà thấy mệt, mỗi ngày phải chăm sóc cục nợ mấy chục ký lô này mệt quá, mỗi ngày phải cho nó ăn, nó đau nó nhức, nó nực nó lạnh, nó ngứa nó tê… cứ như vậy mà phải hầu nó từ sáng đến chiều, đó là cày chứ còn gì nữa. Đâu phải cày là cứ phải đi làm lụng kiếm tiền mua miếng cơm manh áo, thật ra cứ còn tấm thân này thì còn là nông phu. 

Đọc phớt qua thì thấy bài kinh này Đức Phật tìm dịp để thuyết giảng chánh pháp, nhưng chiều sâu của bài kinh này là: hễ còn có thân này, chúng ta còn là những nông phu. Người ác, thiện, phàm phu, thánh Hữu học, thánh La Hán, đều là nông phu. Vị La-Hán thì không còn làm thiện làm ác, không còn vật lộn với đời sống như phàm phu và Hữu học nhưng họ vẫn phải làm gì đó trong kiếp sống này trước khi niết-bàn vì vẫn còn đối diện với danh sắc. Chỉ từ cõi Dục Thiên trở lên thì vị La-Hán tương đối nhàn, chứ La-Hán ở cõi Người này thì cũng còn phải tự chăm sóc bản thân, ăn uống, thuyết pháp, bị nhức mỏi v.v…. 

Cũng trong Tương Ưng Bộ kinh cũng có một bài Đức Phật từng nhắc rằng thức tái sanh là hạt giống, tham ái là sự mầu mỡ trên cánh đồng, cõi luân hồi chính là cánh đồng. Lấy bài kinh đó cộng với bài kinh này thì phải nói là tuyệt vời. Ngài nói pháp tu để trở thành người như Ngài bây giờ thì niềm tin là hạt giống, tinh tấn là mưa, trí tuệ là cái cày, tàm úy là cán cày, tâm là dây cột, chánh niệm là lưỡi cày, thân khẩu đều được hộ trì giống như sự chừng mực của người nông phu trong việc điều khiển lưỡi cày, trong từng bước chân của mình. 

Không biết ở đây các vị có ai thấy qua hình ảnh một người đang cày ruộng chưa, chắc cũng có? Tôi từng có dịp quan sát một người cày bằng trâu, cày bằng bò, và cày bằng máy. Không trường hợp nào không có sự chừng mực, đi một đường, quay trở lại phải hoàn toàn chính xác. Ở đây cũng vậy, Ngài nói thân nghiệp và khẩu nghiệp của Ngài đều đã được hộ trì là như vậy. Trước khi thành Phật, Ngài huân tu các hạnh lành: tín, tấn, niệm, định, tuệ, tàm, úy; bảy pháp sức mạnh của thánh nhân, được xem là bảy món nông cụ của một người nông phu. Dầu cho mình không phải là thánh thì mình cũng vẫn là người đang cày xới. 

Do vô minh trong tứ đế nên mới có ba hành, ba hành chính là nghề nông trong Tam giới. Không biết khổ, tập, diệt, đạo là gì nên mới dẫn đến ba hành, giống như con bò khát nước mà đi uống nước muối vậy. “Chúng sanh già chết khổ sầu, bởi do pháp lậu dẫn đầu vô minh”. Khi khổ quá mới tìm lối thoát: sát sanh, trộm cắp tà dâm nói dối (phi phúc hành), khá hơn chút thì làm phước dục giới như bố thí, phục vụ, nghe pháp (phúc hành dục giới), ráng tu thiền để đắc chứng Sơ Nhị Tam Tứ thiền Sắc giới (phúc hành sắc giới), hoặc tu tập để lìa bỏ thiền Sắc hướng đến thiền Vô Sắc (bất động hành). 

Phi phúc hành dẫn sanh về 4 đọa xứ. Phúc hành dẫn sanh về cõi Dục Thiên và Phạm thiên ngũ uẩn. Bất động hành dẫn sanh về cõi Phạm thiên Vô Sắc. Hết tuổi thọ mãn kiếp rồi thì vẫn quay xuống trở lại như cũ, tiếp tục vòng quay như ngày xưa, nên trong kinh nói vòng luân hồi có nhiều chữ gọi: 1) ‘saṃsāra’: ‘sự lặp lại’, ‘ngựa quen đường cũ’. 2) ‘cakkavatta’: ‘vòng quay’ (cakka: bánh xe). Có mặt trong đời này mỗi người đều là nông phu hết, nhưng làm ruộng theo cách khác nhau, có người làm ruộng để kiếm sống qua ngày, có người làm ruộng để có được nhà cửa, có người làm ruộng để trở thành tỷ phú.

Làm ruộng có hai cách, có người làm ruộng để bỏ ruộng (Đó là những vị Bồ tát, Độc Giác, Thanh Văn giác, Chánh Đẳng Giác, người ta làm thiện, tu tập hạnh lành để lìa bỏ Tam giới) và có người làm ruộng để ở lại với ruộng, làm ruộng để có tiền mua ruộng, mua ruộng rồi tiếp tục làm ruộng. Ở miền Tây VN có nhiều người làm ruộng nhưng đào hồ đào ao để có tiền cho con cái du học rồi bỏ ruộng luôn. Mình thì là những nông phu nghèo không có tầm nhìn nên cứ làm ruộng mua ruộng rồi tiếp tục làm ruộng. Sau khi nghe giảng bài kinh này, ông Bà-la-môn hoan hỉ quá trở thành Phật tử, và vợ con ông cũng vậy. Trong kinh nói ông này rất giàu.

Sinh hoạt thường nhật của Đức Thế Tôn

Chú giải của kinh Kasibhāradvāja nói hơi nhiều về sinh hoạt thường nhật của Thế Tôn. Trong Chú giải có nói rõ một ngày Đức Thế Tôn sinh hoạt như thế nào. Trước bữa ăn, sau bữa ăn, đầu hôm, giữa đêm, rạng sáng Ngài làm gì. Bữa nào Đức Thế Tôn nhìn thấy bữa nay Ngài cần đi độ sinh một mình hoặc đi với riêng ngài Ānanda thì bữa đó Ngài đóng cửa hương thất đến giờ khất thực chớ không thông báo, chư tăng biết thì tự đi. Còn hôm nào Ngài muốn đi chung với chư tăng thì đến giờ khất thực cửa mở, chư tăng tập trung ở đó chờ để đi chung với Ngài. 

Sau giờ trưa, Đức Thế Tôn có nghỉ ngơi một chút, nghỉ ngơi đây không phải là nằm ngủ mà Ngài tọa thiền, thường là nhập thiền Quả. Mình nghe chữ ‘nhập’ hay ‘hóa hiện thần thông’ thì nghĩ chắc là cái gì ghê gớm lắm, phải ngồi xếp bằng, tập trung tinh thần v.v… Không phải vậy, chữ thần thông tiếng Pāḷi là ‘iddhi’, từ động từ ‘ijjhati’ nghĩa là ‘muốn’. Quí vị nghe mấy sư tụng kinh chúc phúc có câu này: nghĩa là ‘muốn’. Quí vị nghe mấy sư tụng kinh chúc phúc có câu này: “ijjhitam patthitam tumham khippameva samijjhatu”, nghĩa là điều gì quí vị, mong mỏi (ijjhitam), ước nguyện (patthitam) hãy sớm được thành tựu. Thần thông đây chỉ là ‘muốn’ thôi, với một người đã chứng được ngũ thông, hoặc ngũ thiền Sắc giới, nhưng phải là người có sự thuần thục. Có người đắc ngũ thiền chỉ để đắc thôi, có người đắc ngũ thiền nhưng hạn chế về đắc ngũ thông, có vị đắc thiên nhãn nhưng không đắc thiên nhĩ thông, hoặc cũng đắc ngũ thông nhưng thiên nhãn của A khác B. 

Trong Chú giải có ghi, sau khi Đức Thế Tôn Niết-bàn, có một vị La-Hán buổi sáng đánh răng nghe một tiếng ‘rắc’, nhìn lên thấy hai sa-di ở trên nhánh cây mà nhánh cây đó gãy, đang đánh răng vậy mà ngài vẫn kịp nhập thiền rồi hóa thông (thật ra nói dài vậy, chớ chỉ là ngài ‘muốn’), nhìn lên ngài chỉ chú nguyện “hãy được an lành” thế là họ đáp nhẹ nhàng như một cánh bướm. 

Tôi nhớ một bài kinh, có người đến hỏi: Bạch Thế Tôn muốn trở thành La-Hán thì phải làm sao? Đức Phật trả lời: Tu tập Tứ Niệm Xứ! Vị ấy hỏi: Khi đắc A-la-hán rồi, gánh nặng đã đặt xuống, không còn chuyện gì để trau dồi nữa, thì an trú trong cái gì? Đức Phật trả lời: Vẫn tiếp tục an trú trong Tứ Niệm Xứ! Chỉ vậy thôi, không gì khác, bởi vì đó là sự an trú tối thượng, tối hậu. Một người không còn phiền não nữa hoặc người đã hiểu được đạo thì vị ấy thấy rằng trên đời này không có chỗ nào an trú tuyệt vời hơn là Tứ Niệm Xứ, biết rõ rằng mọi thứ diễn ra như thế nào. Vị này sau khi xuất gia xong thì chứng A-la-hán. 

Sau giờ ăn thì Đức Thế Tôn nhập thiền quả hoặc an trú chánh niệm. Buổi chiều có cư sĩ đến nghe pháp, Ngài thuyết pháp cho đại chúng, có chư tăng ngồi ở đó. Buổi tối ngài thuyết pháp riêng cho chư tăng. Buổi khuya ngài trả lời câu hỏi cho chư thiên, Phạm thiên xuống. Rồi nghỉ một chút, rạng sáng Ngài dùng Phật nhãn quan sát hôm nay ai sẽ là người Ngài độ, bằng cách nào, cần sự có mặt của ai đó thì Ngài sắp xếp, hoặc là đi một mình.

UDAYA (Udayasutta)

Theo tôi, đây là một trong những bài kinh hay nhất trong Tam tạng. Một lần đó Thế Tôn đi khất thực, ngài đến nhà của một ông Bà-la-môn Udaya. ‘Udaya’nghĩa là “mặt trời mọc” (sunrise). Đúng ra là cái tên không cần dịch, nhưng cũng tiện đâu nói đó cho bà con biết thêm được một chữ, mai mốt có con đi chùa mà muốn cho con mình có tên Pāḷi giống như bên Cơ Đốc có tên thánh, hoặc vô facebook, biết nhiều chữ đặt nickname cũng hay. Tôi có khuynh hướng thay vì đặt pháp danh cho Phật tử, tên nào thấy hay hay mình giữ nguyên Pāḷi đặt cho họ thôi. 

Ví dụ trong Pāḷi có chữ ‘visākhā’(mỹ nhân, giai nhân). Trong tiếng Pāḷi là visesasākhā, ghi tắt là visākhā. Sākhā là tứ chi, cây có nhánh cũng gọi là sākhā. Tay, chân, đầu cũng gọi là sākhā, người nào mặt mũi đẹp, tay chân đẹp thì gọi là ‘visākhā’. Người nào tên Diễm cũng có thể dịch là Visākhā. Tôi nhớ có cô Phật tử ở VN, được sư phụ đặt tên là Karunā (bi). Cổ gặp tôi bên Trung Quốc, cổ thích chữ Karunā nhưng con gái mà tên Bi thì kỳ, tôi suy nghĩ một lát, tôi dịch ra cho cổ cái tên, mà đến bây giờ tôi vẫn thích “Mẫn Nhi”. Chữ Sucarita có vị dịch là ‘Thiện Hạnh’, nếu là học trò của tôi, tôi sẽ dịch là Hạnh Tử, Hạnh Quân hoặc Hạnh Nhi, rất là dễ thương, nữ tánh, chữ Hạnh là đủ rồi không cần thiện. Chữ Hạnh nằm trong tên người ta thì đã là thiện rồi, không lẽ ác hạnh. Sucarita dịch là Hạnh Tử, nghe tên rất là Nhật, thảy vô một bộ kimono cầm cái sushi là thấy Nhựt Bổn rồi.

Bài kinh này hay ở chỗ này, ông Udaya này sau khi cúng dường Thế Tôn xong rồi nói: “Thấy người ta cho được rồi cứ tới hoài”. Chỉ có Thế Tôn, Ngài là con voi ngoài trận, bao nhiêu lằn tên mũi đạn hứng hết, cũng giống như trước 75 ra trận người ta cứ kiếm lính truyền tin mà bắn trước, vì anh này còn là mình còn bị pháo kích mệt nghỉ. Ngày xưa ra trận là người ta nhìn con voi, vì con voi bự nhất, nguy hiểm nhất, và thường voi chở sếp cho nên người ta nhắm vào con voi. Đức Thế Tôn cũng là chỗ nhắm của thiên hạ, vì lòng độ sinh mà Ngài phải dấn thân, đối diện với đủ thứ hạng người thiên trời địa đất, Ngài đâu có được gì, chỉ vì lòng đại bi. 

Nhiều lúc đọc kinh tôi thấy Ngài bị người ta đối xử tệ, tôi có cảm giác Ngài giống như bà mẹ già đi giữa lửa đạn du côn du đãng tìm đứa con lưu manh hỗn hào phạm thượng rồi đưa nó về săn sóc cho nó. Ngài cũng đi vào nơi dơ bẩn để đem con về, tôi từng thấy hình ảnh trong sách, trong phim những người mẹ nuôi con bị điên, đứa con phun vô mặt, bôi dơ dáy, đánh chửi mẹ, mà người mẹ thì hết lòng lau mặt đút cơm cho con và cười với nó. Chỉ có vị Chánh Đẳng Giác mới làm như vậy thôi. Người mẹ chỉ có thể vĩ đại với riêng con của mình, riêng vị Chánh Đẳng Giác thì tất cả chúng sanh trên đời ai đó có duyên với Ngài thì lập tức Ngài chịu cực chịu khổ, vì vậy ngài được gọi là Điều ngự trượng phu (Purisadammasārathi).

Sau khi ông Udaya mắng Thế Tôn và nói “thấy xin được xin hoài”. Đức Phật trả lời: “Chưa đâu, người như ta đây là cuối cùng, người như ông mới là “hoài”. Chữ “hoài” này mới là dành cho người như ông.” ‘Punappunaṃ’: ‘hoài hoài’, ‘liên tục’ (again and again).

Lần này và lần khác
Nông phu đi làm ruộng
Lần này và lần khác
Hành khất đi xin ăn
Lần này và lần khác
Người lành được bố thí.
____________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.