Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 2 - Tương Ưng Thiên Tử - Phẩm Cấp Cô Độc (1)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 2 - Tương Ưng Thiên Tử - Phẩm Cấp Cô Độc (1)

PHẦN CHÁNH KINH

[02] Chương II Tương Ưng Thiên Tử
II Phẩm Cấp Cô Ðộc (S.i,51)

II. Vendu (S.i,52)

1) Ðứng một bên, Thiên tử Vendu nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

2)

Hạnh phúc thay những người,
Sau khi hầu Thiện Thệ,
Tuân phụng lời Ngài dạy,
Tu học không phóng dật!

3) Thế Tôn nói:

Vendu!
Những ai Thiền tu học.
Trong pháp cú Ta dạy,
Tinh cần, không phóng dật,
Ðúng thời họ sẽ đi,
Thoát khỏi tay tử thần.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

Chương 2: Tương Ưng Thiên Tử
Phẩm Cấp Cô Độc

VENDU (Veṇḍusutta)

Chúng ta đang học phẩm Thiên Tử, tất cả những câu hỏi ở đây là do từng vị Trời đến hỏi Đức Phật. Chuyện ai hỏi không quan trọng, quan trọng là nội dung. Đó là hỏi nhưng thật ra có những vị tới thưa với Ngài điều họ tâm đắc nhất, điều sở chứng sở đắc thành tựu của họ, giống như hôm nay, quí vị thấy những người Phật tử bạn đạo của mình tới nói cho mình nghe vừa qua họ tu thiền ở đâu, làm phước ở đâu, dịch sách viết lách cái gì, nói cho nhau những chuyện mình biết, chuyện mình làm, đời sống tinh thần ra sao v.v… 

Không nhất thiết gặp Đức Phật thì ai cũng hỏi cái gì đó. Theo Chú giải, đó cũng là một cơ duyên. Có người xem dịp đến gặp Đức Phật là dịp tốt để học cái gì đó, có người thì chuyện đó không quan trọng, họ đảnh lễ, nhìn Ngài và bày tỏ niềm hoan hỉ, Ngài nói gì họ nghe nấy. Có người xem mỗi lần tìm đến với Ngài như là một cơ hội để học hỏi ở Ngài bằng những câu hỏi hay mà họ cho rằng cấp thiết và quan trọng. Thiên tử Veṇḍu này đến không hỏi gì hết, chỉ thưa với Ngài cái suy nghĩ mà ông cho là tâm đắc nhất. Ông thưa với Ngài một điều mà cũng đáng để cho mình suy nghĩ:

Hạnh phúc thay những người,
Sau khi hầu Thiện Thệ,
Tuân phụng lời Ngài dạy,
Tu học không phóng dật!

“Sukhitāva te manujā, sugataṃ payirupāsiya”: thật may mắn, thật hạnh phúc thay cho những ai hành trì tuân thủ theo lời dạy của Thế Tôn.

‘sugataṃ’: ‘Thiện Thệ’, ‘Thế Tôn’

‘payirupāsati’: ‘phục vụ hầu hạ’.

Theo ngôn ngữ trong Kinh, khi ai đó đến nói với Thế Tôn rằng “Con đã hầu hạ Thế Tôn, con đã phục vụ Thế Tôn” thì có nghĩa là “Con đã hành trì theo lời dạy của Thế Tôn”. Ví dụ trong Trưởng Lão Tăng Kệ: “Con đã hầu hạ Thế Tôn, con đã phục vụ Thế Tôn, chuyện nên làm đã làm, sau đời sống này không còn đời sống khác”, chữ ‘payirupāsati’ có nhiều nghĩa: 1. phục vụ, hầu hạ, 2. tôn kính, tuân thủ.

Tại sao ông gọi đó là sự an lạc, sự may mắn? Bởi vì chúng ta biết rằng mang được thân chư thiên, thân nhân loại không phải là chuyện dễ. Trong một ngày như vậy mọi chúng sanh phàm phu dành thời gian sống thiện nói thiện và làm thiện không nhiều, thậm chí là không có. Bất thiện luôn luôn nhiều hơn sống thiện, nhiều hơn giây phút làm thiện, nói thiện. Thật là đáng thương và buồn cười cho những người (trong đạo chứ không phải ngoài đời) tự thấy mình hay, họ tự mãn về giới luật, về kiến thức Phật pháp, về hạnh bố thí, phục vụ hay sự thân quen của họ đối với chư tăng Phật tử. Đi chùa thấy loại người này nhiều lắm, họ có được chút ít đã tâm đắc thỏa mãn vừa lòng. Vì vậy, thật may mắn thay cho những người nào mang được thân nhân thiên, lại gặp được Thế Tôn, gặp được chánh pháp và hành trì như lời dạy của Đức Phật.

Đức Phật xác nhận suy nghĩ của Veṇḍu bằng câu nói tương đương:

Veṇḍu! Những ai Thiền tu học.
Trong pháp cú Ta dạy,
Tinh cần, không phóng dật,
Ðúng thời họ sẽ đi,
Thoát khỏi tay tử thần.”

Ye me pavutte siṭṭhipade
Anusikkhanti jhāyino;
Kāle te appamajjantā,
Na maccuvasagā siyu’’nti.

Đúng rồi những người nào đến với ta, học tập, lắng nghe, thọ trì lời dạy của ta sống thiền định: Đúng rồi những người nào đến với ta, học tập, lắng nghe, thọ trì lời dạy của ta sống thiền định: “Ye me pavutte siṭṭhipade, Anusikkhanti jhāyino;

‘Anusikkhanti’: ‘học tập’, ‘thọ trì’

‘siṭṭhi’: ‘dạy dỗ’, ‘hướng dẫn’, ‘thuyết giảng’

Câu Hòa thượng Minh Châu dịch “Ðúng thời họ sẽ đi”, theo trong Chú giải là: Với những ai sống chuyên cần theo lời dạy của Đức Phật thì không có gì phải lo, duyên tới thì tự động chứng. Giống như hai người trồng cây, một người trồng đúng, một người trồng sai, đối với người trồng sai phải hướng dẫn họ trồng lại, đào hố đất sâu hơn hoặc cạn hơn chút, nước non, phân bón như thế nào đó… Còn với người trồng đúng thì nói “cứ như vậy đi, vấn đề bây giờ chỉ là thời gian thôi”, nghĩa là mọi việc đã đi vào quỹ đạo rồi,

“Kāle te appamajjantā”: vấn đề chỉ là thời gian thôi

Với người tinh tấn như vậy thì sớm hay muộn thôi chứ nước đã vào máng xối rồi chỉ chạy theo đúng một đường thôi. Đây cũng là một lời an ủi cho chúng ta. Nếu đã hành trì tương ứng với Kinh, tương đồng với Luật thì vấn đề chỉ là thời gian. Trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật dùng một hình ảnh rất thơ mộng: Trong biển đời sinh tử này kẻ phàm phu liên tục và liên tục đầu tư sửa chữa chăm sóc con thuyền sanh tử của mình, để tiếp tục trôi nổi triền miên từ phương này qua phương khác của biển lớn. Nhưng đối với các bậc thánh (Hữu học, Tu-đà-hoàn trở lên) thì giống như người đã neo được thuyền trong bến, thuyền đã lủng ván, hư máy, không tiếp tục đi nữa, và đối với vị A-la-hán thì ngài giống hệt như một cái thuyền đã kéo lên cạn và đang bị mưa nắng làm mục nát không được tiếp tục sử dụng nữa không còn trôi dạt lang thang trên biển đời sinh tử nữa.

Bài kinh Veṇḍu này không có gì để bà con nhăn mày nhíu mặt khi nghiên cứu. Câu cuối cùng “Bài kinh Veṇḍu này không có gì để bà con nhăn mày nhíu mặt khi nghiên cứu. Câu cuối cùng “Na maccuvasagā siyu”

‘Maccu’: ‘thần chết’. ‘vasa’: ‘power’. ‘Gā’: đi.

“Maccuvasagā”: còn lui tới, lai vãng, khứ hồi trong quyền lực chi phối của cái chết.
___________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.