Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 1 - Tương Ưng Chư Thiên - Phẩm Thắng (3)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 1 - Tương Ưng Chư Thiên - Phẩm Thắng (3)

PHẦN CHÁNH KINH

X. Ðời (Thế gian) (S.i,41)

-- Trên gì thế gian sanh?
Trên gì được giao tiếp?
Thế gian chấp trước gì?
Trên gì đời khổ não?

-- Trên sáu, thế gian sanh,
Trên sáu, được giao tiếp,
Thế gian chấp trước sáu,
Trên sáu, đời khổ não.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

Phẩm Thắng

ĐỜI

Lokasutta

Trên gì thế gian sanh?
Trên gì được giao tiếp?
Thế gian chấp trước gì?
Trên gì đời khổ não?

Tùy theo cơ duyên chúng sinh đang đối diện, có những trường hợp khi phân tích về thế giới này Đức Phật chỉ gọi một chữ thôi: “Khổ”. Tất cả mọi hiện hữu là khổ. Trong hình thức nào đi nữa, có mặt ở đời là khổ, vì hễ có mặt là có lúc ra đi. Bất cứ cái gì trên đời này nếu muốn ra đi thì có một cuộc nổi loạn, một cuộc đảo chánh, kể cả cuộc đảo chánh bất thành cũng gây ra những xáo trộn phiền phức ghê gớm lắm, còn nếu cuộc đảo chánh thành công thì mọi thứ được thay đổi toàn diện.

Với cơ thể mình, muốn chết đâu phải dễ. Phải có cuộc nổi loạn trong đó và uống thuốc là trấn áp biểu tình, là vận dụng điều động cảnh sát công an để trấn áp. Điều động thành công nghĩa là uống thuốc có hiệu quả, còn nếu không hiệu quả thì cơ thể đã đến lúc xong xuôi rồi. Như biểu tình ở Libya kết thúc chính quyền Gadhafi, cuộc nổi loạn dàn xếp không được thì vị nguyên thủ phải ra đi, trước khi ra đi thì máu đổ thịt rơi, cơ thể mình cũng vậy đó. Nói như vậy có nghĩa là một ngón tay mà muốn cắt đi, một lá phổi hay thận gan muốn cắt bỏ cũng trải qua một cuộc biểu tình như vậy. Trên hết và sau cùng, tấm thân mình cũng vậy, trước khi muốn kết thúc thì có bao nhiêu rắc rối. 

Hễ có sanh phải có diệt, muốn có diệt phải có vấn đề, có rắc rối mới diệt được. Nói gọn lại, hễ có mặt trên đời là khổ. Có khi Đức Phật nói vắn tắt: “mọi hiện hữu là khổ” (Sankhittena pancupadanakhandha dukkha.). ‘Sankhittena’: ‘nói gọn lại’, briefly, ‘nói rốt ráo’. Có khi Ngài nói chỉ cần có mặt năm uẩn là khổ. Có chỗ Ngài không nói năm uẩn, Ngài nói danh sắc, nói theo thế gian là có tinh thần có vật chất, có phần hồn có phần xác là khổ. Có chỗ Ngài nói là ba khổ: khổ khổ, hành khổ, hoại khổ hoặc Ngài nói sự có mặt của sáu căn là khổ. Tùy nhân duyên người nghe mà Ngài trình bày theo cách nào. Có người thích nghe năm uẩn, có người thích nghe 6 xứ, có người thích nghe 3 khổ, 3 hành, có người thích nghe danh sắc, có người chỉ nghe một chuyện: có mặt ở đời là khổ. Có người thì phải phân tích sâu rộng họ mới đắc đạo.

Trong bài kinh này, người hỏi hợp với con số 6. Có chỗ Đức Phật nói con số 12: 6 nội xứ, 6 ngoại xứ. Có chỗ Ngài nói thêm, 6 căn, 6 cảnh, 6 thức, người học A-tỳ-đàm nghe là hiểu, vì theo A-tỳ-đàm, khi nói con số 18 thì 6 căn không biết gì hết mà chỉ là 6 điều kiện vật chất cho tâm dựa vào đó. Phải có thần kinh thị giác (thuộc về vật chất) thì mới có nhãn thức (cái biết của mắt) để ghi nhận hình này xanh, đỏ, vuông, tròn, dài ngắn… Khi kể 18 giới thì phải kể 6 căn và 6 thức riêng. Khi kể 12 xứ thì kể 6 căn là đủ. Khi Ngài chỉ nói 6 căn thôi thì mình biết Ngài muốn nói gọn, phải hiểu ngầm là bao gồm luôn cả thức và thần kinh; và con số 6 này tiêu biểu cho 6 căn và 6 thức, và con số 6 này là cội nguồn của mọi thứ đau khổ ở đời. 

Dù chúng ta là ai đi nữa, giáo hoàng, tổng thống hay ăn mày, dầu thế giới này có rộng lớn bao nhiêu đi nữa, chỉ gói gọn trong số 6 này thôi. Bỏ đi những gì ta có thể nhìn thấy, bỏ đi những gì ta có thể nghe bằng tai, bỏ đi những gì ta có thể ghi nhận bằng mũi, bằng vị giác, bằng xúc giác, bằng tư tưởng, thì toàn bộ thế giới này thành zero. Nếu không biết đạo thì thấy thế giới này đầy đủ hết: núi non, cây cối, sông hồ, chim muông, kênh rạch. Chính vì vậy ở đây Đức Phật trả lời: 6 nội xứ. Y cứ trên 6 nội xứ này thì mới có 6 ngoại xứ. Bài kinh này ngụ ý thế giới này là thế giới của đau khổ, thế giới này là thế giới của sự lắp ráp, thế giới này là thế giới của sự lệ thuộc các điều kiện. Người có trí, có duyên lành, nghe như vậy là họ đắc.

Tại sao gọi là lệ thuộc? Ở cõi Dục giới, hãy thử tưởng tượng nếu con mắt của quí vị có vấn đề nhìn không được, như tôi chẳng hạn, sáng mai quờ tay không thấy cặp mắt kiếng là khổ rồi. Cặp mắt kiếng mà bị bể hay mất là xong luôn. 

Cách đây một năm tôi bị ù tai suốt mấy tháng trời, ngồi yên mà nghe u u như mình bị nước trong lỗ tai. Cái lưỡi mình khi bịnh, ăn gì cũng lạt. Cái mũi mình nghẹt. Chỉ cần như vậy, không cần đau nhức quằn quại, chỉ cần con mắt mờ mờ không rõ, lỗ tai ù ù chớ chưa điếc, lỗ mũi thì yếu, lưỡi thì cũng không còn nhạy nữa, tay hơi tê tê thôi, nhiêu đó thôi là thấy đời sống mình có vấn đề rồi. Có những khi đầu óc mình mụ mẫm nghĩ không ra, có khi do buồn ngủ, hoặc bực mình, hoặc quên nhiều quá. Chỉ cần 6 căn của mình có một chút vấn đề là mình không an lạc. Chính vì chỗ này mà Đức Phật dạy: toàn bộ thế giới này là thế giới của khổ, y cứ trên 6 căn. 

Bài kệ tuy ngắn gọn nhưng rất quan trọng:

– Trên sáu, thế gian sanh,
Trên sáu, được giao tiếp,
Thế gian chấp trước sáu,
Trên sáu, đời khổ não.

Nói đến số 6 là ngụ ý số 12, và số 18, nhưng trong trường hợp này Ngài chỉ nói số 6 theo câu hỏi của người hỏi. Toàn bộ thế giới này nằm trong sự lắp ráp, lúc thì sống bằng cái thấy, lúc thì sống bằng cái nghe, ngửi, nếm đụng và suy tư. Thế giới này là thế giới của lệ thuộc. Sáu căn, 6 thức có một chút vấn đề là không xong. 

Muốn có được nụ cười trên môi đừng tưởng dễ, đừng nghĩ là cái miệng muốn cười là cười. Thử xem bị tiêu chảy mà không biết nhà vệ sinh nằm ở đâu có còn cười được không, nhức răng có cười được không, gia đình đang có vấn đề có cười được không. Để có nụ cười nhỏ xíu trên môi cần một tỷ điều kiện. Đang vui mà hột bụi chút xíu lọt vô mắt của mình thì nụ cười nào cũng tắt, phải lo lấy nó ra rồi mới cười tiếp được. Cái hạnh phúc trên đời này nó mong manh như vậy, một nụ cười mà cũng khó. 

Thế giới này là một thế giới sống trong sự lệ thuộc, là sự lắp ráp, không có gì là tinh tuyền là độc nhất. Cái gì lắp ráp và lệ thuộc thì cái đó không bền. Thế giới này vừa giả, vừa tạm, vừa rỗng. 

Giả ở đây nghĩa là giá trị nào cũng tương đối; ở thời điểm này, chỗ này là hay, thời điểm khác chỗ khác không còn hay nữa. Trái sầu riêng ở nhà ông A là ngon, nhưng ở nhà ông B chưa chắc. Có những người bỏ ra cả ngàn đô la mua hộp kem bôi mặt, nhưng các vị đưa cho tôi một rổ mỹ phẩm tôi biết làm cái gì. Một bộ soirée mấy ngàn đô la chỉ có giá trị cho người sắp làm cô dâu chớ với người khác đâu có giá trị, ở đây nghĩa là giá trị nào cũng tương đối; ở thời điểm này, chỗ này là hay, thời điểm khác chỗ khác không còn hay nữa. 

Tạm là không bền, có đó rồi mất đó. là không bền, có đó rồi mất đó. 

Rỗng (asāra) là không có cốt lõi, không có gì căn bản cội rễ bên trong, như thể măng tre, bẹ chuối, lột từng bẹ lột miết thì không còn gì hết. Nói ông nào đó giàu, tháo chừng ba bẹ là ông ta không còn gì nữa: Bẹ thứ nhất, điều kiện kiếm tiền của ổng, chỉ cần lý do nào đó làm cho ổng mất điều kiện kiếm tiền là hết, chỉ cần đi casino hay kép nhí là xong; bẹ thứ hai, gia đạo có có vấn đề, có bịnh hoạn hay thiếu đạo đức là xong; lột cái bẹ thứ ba là tài sản, thì không còn gì hết.

Tóm lại nội dung bài kinh này: thế giới này là lắp ráp, là lệ thuộc, là đồ giả, đồ tạm, đồ rỗng, chỉ là mụt măng là thân chuối. Thỉnh thoảng nửa đêm giật mình thức dậy, khát nước, rớt mền… sực nhớ mình sẽ chết, có những bữa chết điếng. Sáng hôm nay tôi cũng bị trường hợp như vậy, nói theo đạo thì tốt cực kỳ, vì chỉ như vậy mình mới có cơ hội nhìn lại mình, chứ còn bây giờ có nói huyên thiên về thế giới này cũng không gì hiệu quả bằng cái chết, chính cái chết mới nhắc nhở mình điều mình vừa học. 

Khi còn sống thì móng tay mọc dài chịu không nổi phải cắt, tay khô thì bôi lotion, áo mặc phải vừa vặn, có tiền thì đổi xe đi cho êm, đùng một cái, khi cái thân này không còn thở nữa thì cái gì cũng bỏ hết. Ở đây thỉnh thoảng tôi ghé tiệm đồ cũ xem có cái gì tốt thì lượm về. Có những bộ đồ như áo thun hoặc giày tất, dao kéo nguyên bộ, tôi nhìn mà rùng mình vì ngờ ngợ đây là của một người đã chết, nhất là những bộ đắt tiền mà bán chỉ còn 1/10, hay 1/20 giá. Quí vị có dịp sang Thụy Sĩ mà dành một tuần lễ cùng với tôi đi tiệm đồ cũ thì có thể lấy lại tiền vé máy bay. Những bộ nồi bạc giá ngàn đô la chỉ còn giá một hai trăm; hoặc họ mua đồ mới bỏ đồ cũ, hoặc họ không còn trên hành tinh này nữa. Cũng có thể là đồ của nạn nhân rớt máy bay vừa rồi không chừng, hay đồ của ai đó vừa ra đi, đồ second-hand là vậy.
_________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.