Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 1 - Tương Ưng Chư Thiên - Phẩm Quần Tiên (2)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 1 - Tương Ưng Chư Thiên - Phẩm Quần Tiên (2)

PHẦN CHÁNH KINH

II. Xan Tham (Tạp, Ðại 2,354c) (Biệt Tạp, Ðại 2,473b) (S.i,18)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.

2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Vì xan tham, phóng dật,
Như vậy không bố thí,
Ai ước mong công đức,
Có trí nên bố thí.

4) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Ðiều kẻ xan tham sợ,
Nên không dám bố thí,
Sợ ấy đến với họ,
Chính vì không bố thí.

Ðiều kẻ xan tham sợ,
Chính là đói và khát,
Kẻ ngu phải cảm thọ,
Ðời này và đời sau.

Vậy hãy chế xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vững an trú,
Công đức trong đời sau.

5) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Không chết giữa người chết,
Như thiện hữu trên đường,
San sẻ lương thực hiếm,
Thường pháp là như vậy.

Kẻ ít, vui san sẻ,
Kẻ nhiều khó, đem cho,
Bố thí từ kẻ khó,
Ðong được ngàn đồng vàng.

6) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Khó thay sự đem cho,
Khó thay làm hạnh ấy.
Kẻ ác khó tùy thuận,
Khó thay pháp bậc lành.

Do vậy kẻ hiền, ác,
Sanh thú phải sai khác,
Kẻ ác sanh địa ngục,
Người lành lên cõi trời.

7) Rồi một vị Thiên khác bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, trong tất cả vị ấy, vị nào đã nói một cách tốt đẹp?

-- Về vấn đề này, tất cả các Ông đã nói một cách tốt đẹp. Tuy vậy hãy nghe Ta:

Sở hành vẫn chơn chánh,
Dầu phải sống vụn vặt,
Dầu phải nuôi vợ con,
Với đồ ăn lượm lặt,
Nhưng vẫn bố thí được,

Từ vật chứa ít ỏi,
Từ ngàn người bố thí,
Từ trăm ngàn vật cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy.

8) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này với Thế Tôn:

Vì sao họ bố thí,
Rộng lớn nhiều như vậy,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ nghèo, chơn bố thí?

Sao ngàn người bố thí,
Từ trăm ngàn vật cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy?

9) Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ này với vị Thiên ấy:

Có những người bố thí,
Một cách bất bình thường,
Sau khi chém và giết,
Mới làm vơi nỗi sầu.

Sự bố thí như vậy,
Ðầy nước mắt đánh đập,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ nghèo, chơn bố thí.

Từ ngàn người bố thí,
Từ trăm ngàn vật cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy.

III. Lành Thay (S.i,20)

1) Ở Sàvatthi.

2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

Lành thay sự bố thí!
Kính thưa bậc Tôn giả.
Vì xan tham, phóng dật,
Như vậy không bố thí,
Ai ước mong công đức,
Có trí nên bố thí.

4) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!

Kẻ ít, vui san sẻ,
Kẻ nhiều khó, đem cho,
Bố thí từ kẻ khó,
Ðong được ngàn đồng vàng.

5) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!
Lành thay sự bố thí,

Phát xuất từ lòng tin.
Bố thí và đánh nhau,
Ðược nói là bằng nhau,
Một số ít kẻ lành,
Thắng xa số đông người.

Ví dầu cho có ít,
Nhưng cho với lòng tin,
Do vậy được an lạc,
Vì lợi ích cho người.

6) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!

Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!

Ai là người bố thí,
Với tàn sản hợp pháp,
Do nỗ lực tinh tấn,
Nhờ vậy thâu hoạch được;

Vị ấy vượt dòng suối,
Thần chết Dạ-ma giới,
Sau khi chết được sanh,
Chỗ trú xứ chư Thiên.

7) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!

Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!

Lành thay sự bố thí,
Có suy tư sáng suốt!
Bố thí có suy tư,
Bậc Thiện Thệ tán thán.

Bố thí cho những vị,
Ðáng kính trọng ở đời,
Bố thí những vị ấy,
Ðược hưởng quả phước lớn,
Như hạt giống tốt đẹp,
Gieo vào ruộng tốt lành.

8) Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

Lành thay sự bố thí,
Kính thưa bậc Tôn giả!
Nhưng thật tốt lành thay,
Bố thí trong thiếu thốn!

Lành thay sự bố thí,
Phát xuất từ lòng tin!
Lành thay sự bố thí,
Với tài sản hợp pháp!

Lành thay sự bố thí,
Có suy tư sáng suốt!
Lành thay sự tự chế,
Ðối với các chúng sanh!

Giữa chúng sanh hữu tình,
Ai sống không làm hại,
Sợ người khác chỉ trích,
Không làm ác, bất thiện,

Họ khen kẻ nhút nhát,
Nhưng chỉ trích người hùng,
Chính sợ bị chỉ trích,
Người lành không làm ác.

9) Rồi một vị Thiên khác bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, giữa chúng con, lời nói ai được tốt lành?

-- Về vấn đề này, tất cả các Ông đều nói lên một cách tốt đẹp. Tuy vậy hãy nghe lời của Ta:

Bố thí với lòng tin,
Ðược tán thán nhiều mặt,
Có pháp hơn bố thí,
Pháp ấy là Pháp cú.

Từ xưa, từ xa xưa,
Người lành, người chơn thiện,
Với trí tuệ sáng suốt,
Ðạt đến cảnh Niết-bàn.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

XAN THAM

Kính bạch Sư trưởng, kính bạch chư tăng ni Phật tử, hôm nay chúng ta bắt đầu bài tiếp theo là bài Kinh Xan Tham. Vẫn theo cách cũ chúng ta làm việc từ buổi đầu của lớp học đến giờ, đó là chúng ta cùng liếc mắt vào phần chánh kinh và sau đó chúng tôi căn cứ vào trong chú giải của bộ Tương Ưng tức là bộ Sāratthapakāsinī để chú thích những chữ khó. Những chữ khó này giống như những mắt tre trong một thân tre dài, chỉ cần qua được cái mắt thôi là những phần còn lại đi rất dễ.

Chúng ta biết rằng Phật ngôn là lời dạy của một bậc Đại Giác, và đúc kết một phần tinh hoa giác ngộ của vị Đại Giác cho nên có rất nhiều điểm trong một câu nói của Ngài cần phải được chúng ta lưu tâm một cách đặc biệt chứ không đơn giản như cách nói của phàm phu. Ví dụ, Đức Thế Tôn là một bậc chứng đắc các pháp siêu thế, hiệp thế và Ngài có một trí tuệ đặc biệt mà các vị Thanh Văn không có hoặc chỉ có một ít thôi đó là khả năng nhìn thấu được căn cơ sở tánh khuynh hướng tâm lý người khác.

Bài kinh hôm nay chúng ta học là bài Kinh Xan Tham (Maccharisuttaṃ). ‘Macchari’: xan tham, bỏn xẻn, keo kiệt. Với người học A-tỳ-đàm chữ này còn có nghĩa là ‘lận’ (tâm bỏn xẻn) trong “sân – tật – lận – hối”. Bản thân tôi ngày xưa còn bé để nhớ được chữ ‘lận’ có nghĩa là bỏn xẻn phải nhớ theo cách rằng bỏn xẻn là cái gì cũng đem ‘lận’ trong người hết, không muốn cho ra, nếu không khó mà tưởng tượng vì sao ‘lận’ có nghĩa là bỏn xẻn.

Bài kinh này có điểm đặc biệt thế này, một đêm kia có nhóm chư thiên xuống hầu Phật. Mỗi vị nói một câu kệ, vị đầu tiên thưa với Đức Phật: Vì xan tham nên người ta không bố thí. Vậy những ai có trí thì nên bố thí. Hội chúng chư thiên này là một nhóm gồm 700 thương buôn bị chìm tàu trước khi mạng chung đã kịp thời cùng nhau chia thành 7 nhóm để thọ trì ngũ giới với một thiện nam duy nhất trên tàu trước khi chìm hẳn xuống biển và 700 người đều chết hết, sau đó họ cùng sanh thiên. 

Nhóm này được gọi tên là nhóm quần tiên Satullapa. ‘Ullapa’ có nghĩa là “đọc theo”. Satu: 100. (xem lại bài kinh Với Người Thiện để biết thêm về họ). Satullapa nghĩa là nhóm đọc theo, mỗi một nhóm 100 người đọc giới. Giữ giới là gặp hoàn cảnh cám dỗ hoặc thử thách mà vượt qua được thì gọi là giữ giới. Những người này không có cơ hội giữ giới, họ chỉ có cơ hội thọ giới, đọc lên, nói lên lời thọ giới vì mỗi người chỉ có một hoặc hai phút đọc lời xác nhận tôi là người có năm giới. Giới hạnh của họ không có cơ hội để xác chứng như người bình thường. 

Tôi thường nói không phạm giới chưa hẳn có giới, ví dụ đứa bé nằm nôi, một người đang ngủ, đâu có cơ hội phạm giới, và đâu hẳn là có giữ giới. Chỉ khi nào chúng ta có lòng cố ý ngăn trừ thân nghiệp khẩu nghiệp thì mới gọi là giới. Ở đây 700 người thương buôn này chỉ có vài phút đọc lời thọ giới, nhưng họ đọc trong giờ phút thập tử nhất sinh, và có túc duyên nhiều đời với hai vị Phật quá khứ là Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Koṇāgamana) và Phật Ca Diếp (Kassapa), họ cũng từng là Phật tử nhưng là Phật tử lớt phớt không thâm hiểu Phật pháp, và niềm tin chỉ ở mức đại khái, nhưng chủng tử đó cũng đã là một hạt giống khi có cơ hội thì phát triển mãnh liệt. 

Trong giây phút cận tử cũng kịp nhớ ra một chuyện phải tận dụng mấy phút ngắn ngủi này để trở thành người Phật tử đúng nghĩa, tự nhớ rõ mình là người có giới không cần ai nhắc, và chính vì vậy mà họ sanh thiên. Nguyên phẩm này nói về nhóm quần tiên Satullapa liên tục xuống cầu pháp với Thế Tôn. Nhóm này từng người thay nhau, hoặc hỏi, hoặc trình lên Thế Tôn những vấn đề tâm đắc.

Chúng ta vừa học một ít kinh, chưa có nhiều, trong đó chúng ta thấy có một nhân vật rất đặc biệt, đó là Cūla-Kokanadā là con gái của một vị Thiên vương ở cõi Tứ thiên Vương, vị thần tên là Pajjunna chuyên trách làm mưa làm gió ở cõi nhân gian. Cô này rất thường xuyên xuống hầu Phật, và trong phẩm này chúng ta thấy có 700 vị thiên Satullapa xuống hầu Phật nhiều lần để nghe pháp và trình pháp. 

Trong chú giải có nói, có rất nhiều vị Trời, khi nghe tiếng mười ngàn thế giới rung động, nhìn thấy hào quang chiếu rực khắp 10 ngàn thế giới, họ hỏi nhau, vị nào biết nói cho vị không biết: Hôm nay là đức Bồ Tát giáng sinh từ cõi Đâu Suất xuống lòng mẹ (Bà Maya) để trở thành vị Phật độ sinh. Có vị nghe tiếng rung động lần thứ hai mới biết hôm nay Đức Thế Tôn chuyển pháp luân. 

Theo chú giải Trường Bộ, có rất nhiều vị khi nghe báo tin hoàng tử Tất Đạt giáng sinh thì họ có tâm nguyện sẽ đến hầu Phật nghe pháp khi Ngài giác ngộ ở trong rừng. Tuy nhiên, tuổi thọ trong thế giới phi nhơn rất dài, chênh lệch với chúng ta rất lớn, ví dụ một ngày chúng ta đi shopping thôi, bước vào chợ là 2 giờ chiều, ra khỏi thì 6 giờ tối, thời gian rất ngắn, nhưng trên cõi trời mà nói ‘lát nữa’ thì trải qua rất nhiều năm, còn mình ‘lát nữa’ thì cao lắm là một buổi. Vì thế, có những vị có tánh trễ nải chậm lụt lúc lập nguyện sẽ xuống hầu Phật nghe pháp là Bồ Tát đản sinh, thì đến lúc họ sực nhớ ra thì Ngài đã về Kushinagar để Niết Bàn. Chỉ một chút trễ nải là đôi khi chúng ta không còn cơ hội, không còn dịp làm điều tốt lành mình mong mỏi, nên lưu tâm điều đó. 

Người Phật tử, khi muốn làm gì tốt đẹp phải xem xét nhân duyên cho phép lúc nào thì lập tức thực hiện ngay lúc đó, dù mình làm bằng tâm hữu trợ cũng tốt hơn chờ đến lúc vô trợ mới làm thì hơi khó (nghĩa là mọi thứ trong điều kiện tốt đẹp 100% thì không còn dịp nữa đâu). Nhóm quần tiên Satullapa này dường như họ hiểu cơ hội gặp vị Chánh Đẳng Giác không nhiều, chính Đức Phật cũng nhìn nhận trên đời này có ba hạng người khó tìm (Vị Chánh Đẳng Giác, người thuyết giảng pháp của vị Chánh Đẳng Giác, và người có tánh tri ân). (Xem bài Kinh Cho Gì, Tập 1, để biết về ba hạng này). 

Vị Chánh Đẳng Giác là người khó tìm, chúng sanh có đủ công đức phước báo để thành Phật thì rất là hiếm, bởi vì vị đó phải hội đủ vô số công đức. Hạng thứ hai, người trao truyền chánh pháp đúng với Phật ngôn cũng là người khó tìm. Chư Phật đã khó tìm, người nghe được chánh pháp cũng không có nhiều. Trong số những người nghe mà có thể trao truyền cho người khác không sai ý Phật càng hiếm hoi. Chính vì vậy những vị quần tiên này tranh thủ cơ hội xuống nghe pháp. Mỗi một bài kinh các vị đó trình lên Đức Phật là câu hỏi hay vấn đề họ tâm đắc.

Bài trước thì các vị này nói về thân cận người lành, nhờ thân cận người lành mà trong đời có lợi lạc. Và Đức Phật đúc kết là ai nói cũng đúng hết nhưng rốt ráo là thân cận bạn lành để chấm dứt sanh tử. Bài kệ này cũng vậy, mỗi người đọc một bài kệ, nhưng chủ yếu tán thán hạnh bố thí, mỗi vị tán thán một cách.

Phần số 4, câu kệ thứ hai có câu rất là hay

“4) Rồi một vị Thiên khác nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Ðiều kẻ xan tham sợ
Nên không dám bố thí
Sợ ấy đến với họ
Chính vì không bố thí

Ðiều kẻ xan tham sợ
Chính là đói và khát
Kẻ ngu phải cảm thọ
Ðời này và đời sau

Vậy hãy chế xan tham
Bố thí, nhiếp cấu uế
Chúng sanh vững an trú
Công đức trong đời sau”

Câu thứ nhất chỉ nói chung chung, vì xan tham bỏn xẻn nên không dám bố thí, do đó những ai có trí thì đừng bỏn xẻn hãy biết cho ra. Câu kệ thứ hai rất thú vị: người không có trí vì sợ bị mất mát sẽ dẫn đến thiếu thốn cho nên họ không dám cho ra, mà không hề ngờ rằng, chính vì không dám cho ra, không dám bố thí mới dẫn đến sự mất mát, thiếu thốn. Đây là điểm đặc biệt của câu kệ này. Theo cách hiểu của thế gian, vì sợ mất mát, thiếu thốn nên người ta không dám cho ra và vì vậy nên mới mất mát thiếu thốn.

Tôi nhớ một câu chuyện của Mỹ, nếu ai không học A-tỳ-đàm thì cũng chỉ nghĩ là một câu chuyện ngắn mang nội dung tâm lý xã hội, nhưng đối với Phật tử thì câu chuyện đó rất đáng quan tâm: Một người đi tìm vàng, tìm được số vàng rất lớn, nhưng lạc trong sa mạc, mới đầu còn chút thức ăn, nước uống. Sau nhiều ngày dưới sức nóng của sa mạc, thực phẩm đem theo không còn nữa, sức khỏe cạn kiệt, cuối cùng anh ta đối diện với cái chết. Anh ta chỉ nhớ mang máng là nhìn thấy một con nhái, anh ta chụp nó bỏ vào miệng nhai cho đỡ đói khát nhưng anh ta yếu đến mức con nhái nằm trước mặt cũng chụp hụt. Sau khi tỉnh dậy, anh ta thấy mình nằm trong bệnh viện, vì do có ai đó đi ngang thấy anh ta và đem vào bệnh viện. 

Điều muốn nhấn mạnh là sau khi vào bệnh viện, bao nhiêu thức ăn bánh kẹo khẩu phần ăn sáng trưa chiều tối anh ta luôn tìm cách giấu dưới nệm. Do ám ảnh của sự đói khát sắp chết trong mấy ngày qua, nên anh ta luôn tìm cách giấu thức ăn vì sợ một ngày nào đó y tá không phát nữa thì anh ta sẽ bị đói như những ngày trước. Khi chúng ta sống trong cõi sanh tử này, do một chút nghiệp xấu trong quá khứ nào đó, nó đẩy chúng ta vào hoàn cảnh éo le nào đó, và hoàn cảnh đó trở thành điều kiện môi trường để nhào nặn ra một thứ nhân cách đặc thù nào đó, giống như anh chàng tìm vàng kia. 

Cũng vậy, khi mình gây nghiệp sát sinh đời này, đời sau sinh ra rất dễ bị hà hiếp hành hạ đánh đập và thể trạng rất là yếu đuối, hoặc sống trong hoàn cảnh thường xuyên bị đọa đày đánh đập. Đó là quả xấu của sát sanh, chính quả xấu này hình thành nên một phần nhân cách của chúng ta. Chúng ta trở thành một người nhút nhát, hoảng sợ trước nhiều thứ. Bản thân tôi, tôi cũng hay sợ, tôi rất lấy làm e ngại, và mong trong này không ai có nỗi sợ đó. Ở tuổi này, cảm giác sợ ma hình như nếu có thì trong hoàn cảnh đặc biệt nào đó thôi chứ tôi có quá nhiều chuyện để bận tâm, âu lo. 

Cứ nghĩ quan hệ chung quanh với chư tăng, Phật tử, có những chuyện sẽ dễ gây hiểu lầm, hoặc có ai gọi phone, email, than phiền nhờ cậy gì đó. Riêng chuyện với người sống đã quá phiền rồi, nên chuyện ma quỷ không còn là ám ảnh mãnh liệt. Khi mình có nghiệp sát sanh thường dễ bị nạn tai, và hình thành tâm lý nào đó. Ở bên Thụy Sĩ, khi đi vào con đường rất đẹp, tự nhiên tôi chợt nhớ đến những bài báo viết về những kẻ nghiện ngập họ có thể ra tay để kiếm ít tiền thỏa mãn cơn nghiện, hoặc kẻ tâm thần trốn viện ra ngoài, bình thường họ rất dễ thương nhưng khi lên cơn điên thì có thể trở nên rất nguy hiểm. 

Đầu thế kỷ 20 một nữ hoàng Áo đi dạo bờ hồ buổi sáng, bị gã tâm thần đâm chết. Tôi có quen một Phật tử thân như người nhà, gia đình này có một người con đi xuất gia theo PG Bắc Tông Tây Tạng. Vị này mỗi ngày lấy xe đi vào công viên ngồi thiền, một ngày kia gặp một gã tâm thần, gã bỗng thấy khó chịu và tấn công vị thầy này một cách tàn bạo khiến vị này bị trọng thương, hôn mê suốt ba tuần và qua đời. Mỗi lần đi trong khu rừng ở Thụy Sĩ, tôi cảm thấy an lạc, cảm nhận được mình rõ hơn bao giờ hết, và ngay giây phút nhận ra mình an lạc, thì lại thấy một nỗi sợ ám ảnh là không biết có ai tấn công hay bạo hành với mình hay không, và nỗi sợ đó đến bây giờ vẫn chưa bỏ được.

Trở lại bài kinh Xan Tham, do chúng ta sợ mình bị mất mát, mình bị đói nghèo, thiếu thốn, ám ảnh này do nghiệp bỏn xẻn đời trước khiến đời này chúng ta trải qua những hoàn cảnh rất khó khăn thiếu thốn chật vật, chính vì thiếu thốn chật vật này, tuy là quả xấu từ đời trước nhưng lại trở thành môi trường tâm lý hiện tại. Nếu không khéo, nếu không gặp minh sư thiện hữu, không có trí tuệ tối thiểu để suy tư, thì chúng ta rất dễ vì quả xấu này mà tiếp tục bỏn xẻn. Từ đó đời sau kiếp khác chúng ta tiếp tục bị nghèo khó và tiếp tục sợ thiếu thốn mất mát, cứ như vậy mà tiếp diễn. 

Vì vậy chúng ta phải tu thiện pháp, làm lành lánh dữ, điều này rất quan trọng. Khi làm thiện chúng ta được an lạc, nếu có đời sau kiếp khác thì trong dòng luân hồi chúng ta cũng sẽ gặt hái những quả lành từ việc thiện đó, và quả lành đó tạo nên phần lớn cho nhân cách của mình, và từ nhân cách một người thiện, cơ hội làm thiện dễ hơn, còn nếu làm điều bất thiện thì trước mắt chúng ta không được an lạc và đời sau kiếp khác sanh ra chúng ta sẽ bị quả xấu và từ quả xấu đó những nhân cách tầm thường sẽ được hình thành. 

Ví dụ tật nói xấu người khác, đời sau kiếp khác dễ bị oan, dễ bị nói xấu, sống trong tâm trạng của một nạn nhân như vậy đó, chúng ta không thoải mái. Đôi bàn chân của mình bẩm sinh không dị tật, do mang giày dép không đúng cách, một thời gian sau bàn chân sẽ bị dị tật. Tôi từng đọc bài báo, người ta nói một trong những điều đáng thương nhất của phụ nữ hiện đại là mang giày cao gót và nó hại cho sức khỏe của người phụ nữ ghê gớm. Quí vị có thể tìm trên Google “Tác hại của giày cao gót”. Do nghiệp tham ái muốn làm đẹp nên họ phải sử dụng đôi giày quái gở đó, và chính vì vậy bàn chân họ không bình thường. Nếu chúng ta hay nói xấu người khác thì đời sau kiếp khác chúng ta sẽ bị vu oan, và nhiều lần như vậy thì chúng ta sẽ sống trong tâm trạng hoang mang sợ hãi, không khéo thì sẽ trở thành một người giả dối để trốn tránh người khác tấn công mình, và đổ vấy, đùn đẩy lên người khác để thoát thân.

Khi chúng ta tạo nghiệp bất thiện, lúc chúng ta chịu quả khổ quả xấu của nghiệp này, chúng ta vô tình tạo điều kiện cho người khác gây nghiệp xấu. Ví dụ tôi thích chửi bới, nói lời độc địa nặng nề, quả đó làm cho đời sau sinh ra tôi dễ bị người ta chửi bới nạt nộ, đến nỗi chỉ cần nhìn thấy mặt tôi là người ta đã nạt nộ rồi.

Bài kệ này ngắn, đọc phớt qua thì thấy chỉ nói về bố thí và bỏn xẻn, nhưng qua đó chúng ta học được điều cực kỳ quan trọng cho đời tu của mình: Mỗi mỗi công đức, thiện pháp mình tu tập sẽ tạo ra hoàn cảnh sống của mình trong tương lai và hoàn cảnh sống đó sẽ tiếp tục hình thành nên một thứ nhân cách, một thứ tâm lý nào đó. Tâm lý, nhân cách đó sẽ là nền tảng cho một nghiệp khác tương ứng. 

Khi chúng ta làm điều bất thiện nào đó, chẳng hạn nghiệp bỏn xẻn, hoặc nói xấu người khác, tâm bất thiện đó sẽ tạo ra một quả xấu trong tương lai. Quả xấu đó sẽ mặc nhiên và đương nhiên khi trổ quả sẽ tạo ra một thứ tâm lý, nhân cách tương ứng với nghiệp đó. Ví dụ như mình luôn sống với tâm bỏn xẻn, thì đời sau mình luôn luôn e sợ sự hao tốn, từ sự sợ hao tốn này chúng ta sẽ bỏn xẻn, càng bỏn xẻn thì càng thiếu thốn, càng thiếu thốn thì càng sợ hao tốn. Càng sợ hao tốn thì càng ít làm phước, càng ít làm phước thì càng thiếu thốn, cứ liên tục vậy, cái này nuôi cái kia.

Một buổi chiều bên bờ hồ có một cậu thanh niên đi câu cá, thèm điếu thuốc lá, mò trong túi thấy không có diêm. Thấy có một người bên cạnh, bèn nói: Xui quá, cháu quên mang hộp quẹt mà thèm thuốc quá, bác có lửa cho cháu xin. Ông cụ nhìn chàng thanh niên hai giây và trả lời: Tôi không hút thuốc và không lý do gì tôi mang hộp quẹt, và nếu có thì tôi cũng không thèm cho cậu. Cậu thanh niên này nghe rất khó chịu vì đâu có gây sự gì với ông cụ mà sao ông lại nói vậy, bèn hỏi: Xin lỗi, có gì mà bác nói vậy. Ông cụ nói: Ngó cậu cũng là người lễ phép có học, nếu tôi có quẹt cho cậu mượn thì cậu sẽ cảm mến tôi, cậu sẽ bắt chuyện với tôi, nếu vậy thì tôi sẽ mến cậu, mà sẽ có ngày tôi mời cậu về nhà, rồi đứa con gái tôi mến cậu, con gái tôi đẹp, biết điều, và không lý do gì cậu sẽ không mến nó, rồi hai đứa sẽ yêu nhau, rồi sẽ tới lúc lấy nhau, tôi là cha, tôi sẽ gả con cho cậu. Làm sao tôi có thể gả đứa con gái cho một thằng thanh niên nghiện thuốc lá mà không có diêm quẹt. 

Tôi thấm thía câu chuyện này, thì ra trên đời này, bao nhiêu rắc rối có thể khởi ra từ duyên cớ nhỏ xíu. Trong thơ ca VN có câu thế này: “Giá như hôm ấy đừng mưa, giá như hôm ấy đừng đưa em về”. Chiều hôm đó đừng mưa và hai đứa không trú mưa dưới mái hiên, nếu như xe nàng đừng bị hư thì mình đâu đưa người ta về, rồi từ đó mến nhau, lấy nhau, rồi phát hiện ra mình không thuộc về nhau vậy mà sống chung với nhau, đày đọa nhau một đời, chỉ vì một điều: hôm ấy trời mưa!

Để xác định mình có phải là người rộng rãi, người yêu mến Phật pháp, yêu thích điều thiện hay không thì có một cách rất là hay để riêng mình kiểm chứng, đó là phải tự xét mình xem: Ví dụ mình vừa lên chùa thức đêm nấu ăn cho đại chúng, vừa tốn tiền xăng, muốn biết mình có phải là người hào sảng, tha thiết với Tam Bảo hay không thì tự hỏi, nay mai mình có làm như vậy nữa hay không, nếu làm lại từ đầu thì mình có làm nữa hay không, mình sẽ quyết định như thế nào. Đó là cách rất là hay. Qua cách đó mình mới biết là mình có là người tha thiết điều thiện hay không. Tại sao phải kiểm tra như vậy, là bởi vì phải kiểm tra như vậy mình mới biết thiện tâm của mình. Nhiều khi thiện tâm của mình không nhiều như mình tưởng, nếu mình ngộ nhận về bản thân thì mình không tiến bộ được. 

Vì vậy ở đây Đức Phật xác nhận câu nói của một vị trời: Tuy có cho nhiều cách mấy đi nữa nhưng quan trọng nhất là người trong điều kiện khó khăn mà vẫn có thể chia sẻ được cho người khác. Một người thực sự hào sảng rộng rãi thì trong hoàn cảnh nào họ cũng thích cho ra. Nếu cho họ quyền lựa chọn, nếu có phép lạ nào đó họ có thể thay đổi mọi thứ làm lại từ đầu để quyết định nên làm hay không làm chuyện đó họ vẫn giữ quyết định đó, thì trường hợp đó mới gọi họ là người hào sảng. Trong hoàn cảnh khốn khó một người cư sĩ phải lo cho vợ con, trong điều kiện rất chật vật mà kẻ đó vẫn có thể dành ra một phần để cho người khác thì kẻ đó mới thật sự là kẻ hào sảng.

Trong kinh nói, thu nhập của người Phật tử nên chia thành bốn phần: 1/ Trả nợ cũ: đền ơn đáp nghĩa nợ sinh thành, giáo dưỡng của cha mẹ của ông bà, của người ơn. 2/ Cho vay nợ mới:để dành nuôi dưỡng vợ con, giúp đỡ bạn bè cơ nhỡ khó khăn. 3/ Liệng bỏ ở hố sâu: tiêu dùng chi phí cho mình. 4/ Chôn để dành: bố thí dành cho đời sau kiếp khác.

Một bài kinh khác, Đức Phật nói trong ngôi nhà đang cháy, người ta thoát thân thì phải lận lưng cái gì gọn nhẹ và có giá trị. Cũng vậy trong tấm thân phù du giữa cuộc đời sương khói này người biết đạo cũng đem theo ra khỏi cuộc đời này những gì mình có thể chia sẻ cho người khác để kiếp khác còn có cái để xài. 

Một cô con dâu đang đứng hầu cha chồng ăn cơm thì có một vị tỳ kheo đi bát ngang qua. Người cha chồng là ngoại đạo nên làm lơ không ngó gì vị tỳ kheo đang ôm bát đứng trước ngõ. Cô con dâu là Phật tử, vừa thấy bẽ mặt, vừa thương xót vị tỳ kheo, lại vừa sợ cha chồng, cuối cùng cắn răng nói một câu với vị tỳ kheo: Xin ngài đi hóa duyên chỗ khác đừng đứng đây nữa, vì cha chồng của con đang dùng món ăn cũ của ngày trước. Cha chồng bực mình và bắt lỗi con dâu. Cô nói vị tỳ kheo đó hiểu cô muốn nói cái gì, cha giàu có mà cha không làm phước thì xem như cha ăn đồ cũ chớ không có nấu được món mới, không đi chợ thêm.

Bài kinh này không chỉ nói riêng vấn đề bố thí không mà còn gợi ý vấn đề khác nữa, đó là: Nghiệp thiện ác đời này sẽ cho quả đời sau, chính quả thiện ác đó sẽ tạo ra nhân cách, môi trường tâm lý tương ứng với nghiệp mình nhận lấy. Trên điều kiện môi trường tâm lý đó, có thể chúng ta càng lúc càng lên cao hơn hoặc càng xuống thấp hơn, chẳng hạn như một vị Bồ tát Chánh Đẳng Giác kể từ lúc sơ phát bồ đề tâm nguyện trở thành vị Phật trong tương lai tế độ chúng sanh, Ngài làm cái gì đi nữa cũng với ý tưởng: Quả vị Phật cho mình, tiếp độ quyến thuộc, lợi ích cho chúng sinh. 

Một người sơ cơ nghe nói Bồ tát phải bố thí thân mạng, hoặc bố thí hết mọi sở hữu thì rất khó tin, làm gì có ai đem mạng sống cho người khác. Vấn đề này rất quan trọng, hôm nay tôi sẽ giảng lý tưởng đại thừa trong kinh điển Pāḷi cho quí vị. Từ lúc sơ phát tâm trở thành vị Chánh Đẳng Giác thì kể từ lúc đó vị Bồ tát liên tục huân tập các hạnh lành và các hạnh lành này sẽ phát triển theo một nguyên tắc trong toán học gọi là lũy tiến. Lũy tiến có nghĩa là mọi thứ sẽ phát triển theo cấp số nhân, giống như cái ao bèo, một mét vuông bèo sẽ nở ra một mét vuông bèo sau một đêm, đêm thứ hai sẽ nở thành 4 mét vuông, đêm thứ ba thành tám mét vuông v.v…. 

Khi Bồ tát càng lúc càng huân tu pháp lành thì hạnh lành của Ngài đời trước sẽ cho quả đời sau và trở thành môi trường tâm lý cho Ngài. Với hạnh bố thí thì càng lúc Ngài càng giàu có, càng giàu có càng bố thí… Hạnh trí tuệ cũng vậy, càng trí tuệ càng hiếu học… Hạnh kham nhẫn cũng vậy, càng kham nhẫn thì càng có được nhiều sự tôn trọng và sự an lạc trong đời sống và càng thấy chuyện nhẫn nhục dễ dàng; giống như con nhịn mẹ dễ hơn nhịn người dưng. Vì thấy dễ như vậy sẽ là điều kiện nhẫn tốt hơn. Càng về sau thì môi trường hành xả, kham nhẫn càng lớn hơn và trước khi thành Phật thì ở đâu Bồ tát cũng xem chuyện từ bi hỷ xả, bố thí, trì giới rất là nhỏ nhờ công đức lũy tiến.

Bài kinh này là lời kêu gọi của các vị Trời. Vị thì kêu gọi bố thí, vị thì bảo đừng có bỏn xẻn, vị thứ ba nói rằng: cái hay nhất trên đời là trong hoàn cảnh khó khăn mình vẫn xòe tay chia sẻ cho người khác. Đức Phật cũng xác nhận bằng câu kệ mà nội dung là “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”.

“Kẻ nghèo, chơn bố thí.
Từ ngàn người bố thí,
Từ trăm ngàn vật cho,
Trị giá không ngang bằng,
Kẻ bố thí như vậy.”

Lời kết của Đức Phật trong Kinh Xan Tham: Bố thí là việc đáng quý, nhưng đáng quý hơn nữa là sự hy sinh để bố thí, tức là cho cái khó cho, nhờ vậy sẽ được cái khó được. Mỗi nghiệp thiện ác sẽ tạo cho quả báu đời sau, quả báo đó chính là môi trường và tâm lý cho những nghiệp thiện ác tương ứng. Nhân cách đó, tâm lý đó sẽ làm nền tảng cho những nghiệp khác tương ứng.

LÀNH THAY

Bài kinh Lành Thay này cũng là do nhóm quần tiên Satullapa xuống hầu Đức Phật và đem chuyện bố thí ra tán thán. Khi chúng ta đọc kinh thật kỹ và thật sâu thì kinh nào cũng quan trọng hết. Nếu chỉ đọc phớt rằng: “bài kinh này kêu gọi bố thí và Đức Phật cũng tán thán sự bố thí” như vậy thì nghèo quá. Gia tài của bố để lại là một rừng hoa trái, một rừng kim cương, mà liếc qua như anh nông dân không biết gì về trân châu bảo thạch thì uổng quá, vì bài kinh rất sâu sắc. 

Các vị Trời trong nhóm quần tiên này vẫn tiếp tục nói đủ điều về bố thí. Nội dung cũng y hệt như bài kinh trước, các vị Trời này thay nhau đọc hầu Đức Phật những điều tâm đắc của mình về pháp bố thí và lời kết của Đức Phật trong Kinh Lành Thay là bố thí với niềm tin (Ví dụ mình ngồi trên xe mà người ta cứ gõ lên kiếng xe hoài làm mình phải cho tiền, đó là không phải bố thí với niềm tin, và cũng không phải là bố thí để cầu lung tung, mà trước khi bố thí mình phải có niềm tin và cũng không có nghĩ nhiều về nhân quả. Có lúc bố thí nghĩ đến quả báo, có lúc mình hoan hỉ mà không nghĩ gì đến quả báo) tuy nhiên pháp thí là tối thượng.

Bố thí với lòng tin,
Ðược tán thán nhiều mặt,
Có pháp hơn bố thí,
Pháp ấy là Pháp cú.

Từ xưa, từ xa xưa,
Người lành, người chơn thiện,
Với trí tuệ sáng suốt,
Ðạt đến cảnh Niết-bàn.

Bản kinh tiếng Việt có câu “Pháp ấy là Pháp cú”; trong bản Pāḷi chữ “pháp cú” này là dhammapada. Câu này tôi dịch lại: Bố thí bằng niềm tin là rất tốt, nhưng trong các bố thí có cách pháp thí là tối thắng. Dhammapada là lời nói theo chân lý, đạo lý. 

Quí vị nào đọc được tiếng Anh vào trong trang www.lirs.ru thì thấy bản dịch của họ không hề nhắc gì Kinh Pháp Cú hết. Câu “Có pháp hơn bố thí, Pháp ấy là Pháp cú” nghe rất là kỳ cục, lại viết chữ hoa nên sẽ cứ tưởng pháp cú đây là Kinh Pháp Cú, mà “câu có pháp hơn bố thí” có thể nghĩ là pháp đó hay hơn pháp bố thí. 

Không phải như vậy, ở đây muốn nói, trong các hạnh bố thí, bố thí pháp là số một, dù chỉ là một câu thôi khi câu đó liên hệ đến Niết Bàn. Câu “nibbānasaṅkhātaṃ dhammapadameva seyyo” trong chú giải có nghĩa là dù bố thí nào đi nữa, chỉ cần một câu pháp có nội dung hướng dẫn người ta đến cứu cánh Niết Bàn thì bố thí đó được gọi là tối thắng.

Câu trên phải được dịch như thế này: “Bố thí với lòng tin thì đúng là đáng tán thán nhưng không có bố thí vật chất nào sánh bằng được pháp thí dầu chỉ một câu, vì từ ngàn xưa các bậc trí tuệ dầu nói gì nghĩ gì vẫn luôn đặt cứu cánh Niết bàn lên vị trí cao nhất”. Đó là bản dịch mới nhất của bài kệ này, lời kết của Thế Tôn trong Kinh Lành Thay, khi cả nhóm quần tiên ai cũng tán thán hạnh bố thí. Trong bài kinh trước Ngài kết luận bố thí trong lúc khó khăn thì đáng quí hơn lúc bình thường, còn ở bài kệ Lành Thay này thì Ngài đúc kết bằng câu nói khác: Dù bố thí gì đi nữa mà một câu nói pháp có gắn liền với cứu cánh Niết bàn thì pháp bố thí đó là được xem là tối thắng.

Xin hẹn lại quí vị ngày mai, nếu chư tăng còn trong room, con xin đảnh lễ từ biệt chư tăng. Xin cúi đầu tri ân sự có mặt của các ngài đã thêm lửa cho một lớp học lạnh giá. Lạnh giá là vì con không thấy mặt một người Phật tử nào hết nhưng khi con biết là có chư tăng con có cảm giác là đang nói chuyện trong chùa, có sư huynh, sư đệ đã quen, vừa quen và chưa quen. Trong bối cảnh có đại chúng như vậy, con hy vọng đức chúng như hải, các ngài cho công đức bằng một sự tùy hỷ thì lớp học sẽ trường thọ hơn. Con mong rằng nếu một ngày con giảng trung bình ba bài thì mười ngày được ba chục, một quí được một trăm. Một năm ba quí non một ngàn bài mà Tương Ưng Bộ Kinh này có tới bảy ngàn bài.
____________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

  1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma-sambuddhassa !

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa!

      Xóa

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.