Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 1 - Tương Ưng Chư Thiên - Phẩm Quần Tiên (1)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 1 - Tương Ưng Chư Thiên - Phẩm Quần Tiên (1)

PHẦN CHÁNH KINH

IV. Phẩm Quần Tiên

I. Với Người Thiện (S.i 16)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Ðược tốt hơn, không xấu.

4) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Ðược tuệ, không gì khác.

5) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Không sầu, giữa sầu muộn.

6) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh sanh thiện thú.

8) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh thường hưởng lạc.

9) Rồi một vị Thiên khác bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, trong tất cả vị ấy, ai đã nói lên một cách tốt đẹp?

-- Về vấn đề này, tất cả các Ông đều nói lên một cách tốt đẹp. Tuy vậy, hãy nghe lời Ta nói:

Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Giải thoát mọi khổ đau.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Quần Tiên ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

VỚI NGƯỜI THIỆN

Trong thời Đức Phật có nhóm thương gia 700 người đi trên biển, bị chìm tàu, ai cũng sợ hãi, nhưng một người thiện nam bình tĩnh ngồi nhớ lại giới hạnh mình đã thọ trì và công đức bố thí mình đã thực hiện trước khi mình xuống tàu đi biển, vì vậy mà vị này vẫn bình tĩnh. 

Có câu danh ngôn thế này: “Cầu nguyện không phải để thoát nạn mà là nhằm có sự bình tĩnh trong lúc lâm nạn”. Không hy vọng thoát rồi thì mình chọn cái chết trong bình tĩnh hay cái chết trong sợ hãi? Nếu phải chọn, thì hãy chọn cái chết trong bình tĩnh. Nếu 100% không đường thoát thì mình sẽ ra đi trong thanh thản, và nếu còn 0,1% con đường thoát thì con đường đó chỉ dành cho người bình tĩnh thôi. Trên máy bay, họ hướng dẫn cách sử dụng phao cứu hộ, cửa thoát hiểm, tôi cười thầm không biết có bao nhiêu tai nạn máy bay mà người ta sử dụng kiến thức thoát hiểm đó, tuy nhiên, có những trường hợp người ta thoát chết trong đường tơ kẽ tóc nhờ bình tĩnh, kẻ nào càng bình tĩnh thì cơ hội sống sót càng lớn. 

Ông thiện nam này ngồi bình tĩnh và niệm tưởng giới hạnh. Bảy trăm người kia hỏi làm sao ổng có thể bình tĩnh như vậy, ổng nói: Tôi hết đường rồi, tôi cầu nguyện không phải để thoát nạn mà để bình tĩnh. Những người kia nghe vậy mới nói: Chúng tôi muốn thọ năm giới mà ông đã thọ. Nhưng để có sự tôn nghiêm của một lần thọ giới ở một nơi không có nhang đèn hoa quả thì làm sao bây giờ. Ông nói, giờ chia 700 người ra thành 7 nhóm, ông sẽ truyền năm giới cho từng nhóm. Lúc đó con tàu sắp chìm rồi. 

Năm giới cũng ngắn lắm: Đệ tử phát nguyện trọn đời không sát sinh, đệ tử phát nguyện trọn đời không trộm cắp, đệ tử phát nguyện trọn đời không tà dâm, không uống rượu, không nói dối. Cứ thế từ nhóm 1, đến khi nhóm thứ 7 vừa đọc xong “Đệ tử phát nguyện trọn đời không uống chất say, chất kích thích”thì con tàu chìm, cả 700 người này được sanh thiên. 

Ở đây phải nói thêm, 700 người này đều là có công đức đời trước chứ không phải nhờ công đức thọ giới ngay tại chỗ đâu. Sự nhất tâm của họ trong giây phút thập tử nhất sinh đó rất mạnh, cái mạnh đó trở thành nguồn tâm lực, phước lực đủ để sanh về cõi cao. Họ là những người có nội hàm, có căn cơ bản lĩnh, chớ không phải tay mơ như mình ở đây, mình bây giờ mà gặp Phật thì uổng thôi. Bây giờ nhiều người theo Phật nhưng toàn xà bần hổ lốn chớ không phải như những ngài Xá Lợi Phất, A Nan, Ca Diếp; Đức Phật bây giờ mà có ra đời cũng chỉ là dáng đứng cô đơn trong cõi mù sương hiu quạnh thôi.

700 vị này đi đâu cũng chung hội chung thuyền với nhau, một ngày kia kéo xuống hỏi đạo, nhớ lại duyên xưa vì đâu được sanh về đây, mỗi người đứng trước mặt Thế Tôn mà đọc bài kệ nói nỗi niềm tâm đắc của mình. Các bài kệ này có điểm giống nhau y hệt 3 câu đầu, chỉ khác câu thứ tư thôi:

Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền

Theo chú giải, mấy ông này có biết gì đâu mà ‘diệu pháp’. ‘Diệu pháp’ mà họ nói trước mặt Thế Tôn ở đây ám chỉ cho năm giới thôi. Mấy ổng nhắc lại duyên xưa, may là ở gần gặp được ông thiện nam mà nay mới được sanh thiên nếu không là tiêu tùng cả đám, ý của bài kệ này là như vậy. Bài kệ này cũng không có gì khó hiểu, có một điều là Đức Thế Tôn thấy rõ ý của họ rất nghèo, rất cạn, không có sâu (được vui hơn, vui ở ngay thân nhân loại, vui được sanh về trời…). Có một ông còn nói nhờ giữ năm giới mà sinh ra được sung sướng. 

Cuối cùng Đức Phật đúc kết lại: Đúng rồi, gặp gỡ, học hỏi người lành là tốt, nhưng không phải nhắm cái mục đích mà các ông nghĩ đến đâu, cái rốt ráo nhất ở đây là khi thân với người lành phải lắng nghe người lành nói con đường giải thoát, và thực hành như người bạn lành đã dạy mình. Việc lắng nghe và thực hành đó không nhằm để sanh thiên hưởng lạc, mà sự thân cận này không phải sống như cái muỗng nằm trong nồi canh, không biết tận dụng khai thác cơ hội để học hỏi. Lắng nghe diệu pháp là để học hỏi con đường giải thoát chứ không phải là năm giới. Cứu cánh cao nhất của việc thân cận người lành, hiền trí đó là chấm dứt sanh tử luân hồi chứ không phải để an lạc trong cõi nhân thiên. 

Trong kinh nói số nước mắt đổ ra trong dòng luân hồi vì sanh ly tử biệt vì đau đớn bản thân nhiều hơn nước bốn biển; sữa mẹ mình uống trong dòng luân hồi nhiều hơn nước trong bốn biển. Nước trong bốn biển còn có giới hạn. Tính theo diện tích và chiều sâu của biển thì có thể biết được thể tích nước trong bốn biển nhưng dòng luân hồi thì tiền tiền vô thỉ, hậu hậu vô chung, nhìn tương lai mịt mịt mù mù như thế thì bốn biển kể gì. Với diện tích 9 triệu ki lô mét vuông, số cát trong sa mạc Sahara nhiều biết bao nhiêu, con số tuy lớn nhưng ít ra cũng còn có giới hạn trong khi dòng luân hồi thì thăm thẳm không có giới hạn. Trong dòng luân hồi biết bao nhiêu lần mình làm ác làm thiện. Rồi thì sao, sung sướng cho lắm thì cũng mắm với dưa, sung sướng vừa vừa thì cũng dưa với mắm, đã bao nhiêu kiếp mình đã ăn lạt, nếu không nhắm đến cứu cánh giải thoát thì cuộc luân hồi vẫn sẽ liên tục tái diễn, trùng phục đời này sang kiếp khác. 

Vì vậy điều quan trọng nhất ở đây chính là kết thúc nó. Việc gặp gũi người lành không phải đơn giản là gặp mặt nhau trà dư tửu hậu mà là sự lắng nghe nhau và sự hành trì, thực hiện điều mình học hỏi được từ người hiền trí. Kiến thức Phật pháp của mình phải ở mức độ tác động trực tiếp và tích cực lên trên đời sống nội tâm của mình mới là học đúng, còn học cho lắm mà cái học cái biết cái hiểu của mình không tác động tích cực được lên đời sống tâm linh của mình thì cái học đó không có được bao nhiêu ý nghĩa. 

Dù chỉ học một ít thôi mà cuộc đời mình vui hơn, bình thản hơn, tự tại vô ngại, có lòng yêu thương chúng sinh hơn. Còn nếu như thiếu duyên hoặc không gặp minh sư thiện hữu thì dễ bị điều này: 1/ Tự học thì học không nhiều, không chịu học. 2/ Có học cũng học dốt. 3/ Nếu học nhiều, cái học đó cũng không đủ để cho mình trở nên dễ thương hơn. Có người học cho nhiều chỉ để trở thành người uyên bác. Có người học nhiều để thêm hạnh nhẫn, hạnh vị tha. Có người nhẫn rất hay nhưng lòng thương người hơi thiếu. Có người thì vị tha, tốt bụng bao dung nhưng mặt tinh tấn thiền định hướng về tâm linh thì thờ ơ trễ nải. 

Một cuộc tu vuông tròn thì phải có này có nọ, có ta có người. Có điều kiện gặp minh sư, thiện hữu, thì phải kịp thời tranh thủ khai thác triệt để bỏ túi hành trang cần thiết cho cuộc tu và cái học được từ bậc hiền trí phải có khả năng xoay chuyển tác động lên trên đời sống tinh thần của mình. Học hỏi như vậy đó mới là nên, chúng ta không phải là những con chuột bạch cho những vị tăng ni tu sĩ làm thí nghiệm. Họ nghĩ cái gì, thích cái gì, nhớ cái gì bèn xách ra nhét vô trong đầu mình bắt mình học. 

Mình ăn còn kiêng cữ, kén chọn, tại sao đời sống tinh thần lại thiếu sự cẩn thận vậy? Đây là câu mà quí vị phải tự hỏi mình. Phụ nữ thì lấy son vẽ lên tấm gương trong nhà tắm để mỗi sáng rửa mặt nhớ đọc câu đó: Tại sao ta ăn kỹ mà học đạo ẩu vậy, ai nói sao nghe vậy ai nói bậy cũng nghe? Tại sao với tấm thân sinh lý thì e dè cẩn thận mà đời sống tinh thần bất cẩn dữ vậy? Rất là nhẹ dạ, cả tin chấp nhận những gì người ta ban cho mình là sao? Kiếp trước mình là con chuột bạch trong phòng thí nghiệm hay bây giờ mình đang chuẩn bị hành trang để mai mốt làm con chuột bạch. 

Kinh Kalama nói, chớ vội tin những gì được truyền thuyết ghi lại, chớ vội tin những gì đã được bảo chứng từ nguồn nào đó trong tôn giáo hay xã hội (sư phụ nói như vậy, sách vở nói như vậy, tổ tiên đời xưa nói như vậy…). Trên đời này mọi thứ luôn luôn ở trong trạng thái thay đổi, có những nguyên lý, những công thức đúng ở không gian thời gian này nhưng ở không gian thời gian khác cần phải xét lại. Tất cả giải pháp trên đời này từ chính trị, văn hóa, tôn giáo đều mang ý nghĩa tạm thời. 

Có những người đến học đạo với Đức Phật, Ngài nói về Thất Giác Chi, một lúc khác Ngài nói Bát Chánh Đạo, có người thì Ngài nói thu thúc lục căn, có người thì Ngài nói chỉ quán, có người thì Ngài nói Tam học, có người Ngài chỉ nói một câu: Nó làm sao thì thấy nó như vậy, có người Ngài nói một câu mà nghe còn nản nữa: Thấy vậy mà không phải vậy. Cứ niệm câu đó như con nít đi, đi ăn đi uống, đi vệ sinh, đi hành thiền cứ nhớ câu: “Thấy vậy mà không phải vậy”, bao nhiêu đó đủ thành thánh rồi. Mình tuyệt đối không bao giờ làm con chuột bạch cho bất cứ ai và hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành trình trước mắt của mình.
_______________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.