PHẦN CHÁNH KINH
IV. Phẩm Quần Tiên
I. Với Người Thiện (S.i 16)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).
2) Rồi rất nhiều quần tiên Satullapa, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
3) Ðứng một bên, một vị Thiên nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
4) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Ðược tuệ, không gì khác.
5) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Không sầu, giữa sầu muộn.
6) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh sanh thiện thú.
8) Rồi một vị Thiên khác lại nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Chúng sanh thường hưởng lạc.
9) Rồi một vị Thiên khác bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, trong tất cả vị ấy, ai đã nói lên một cách tốt đẹp?
-- Về vấn đề này, tất cả các Ông đều nói lên một cách tốt đẹp. Tuy vậy, hãy nghe lời Ta nói:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền,
Giải thoát mọi khổ đau.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Quần Tiên ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)
VỚI NGƯỜI THIỆN
Trong thời Đức Phật có nhóm thương gia 700 người đi trên biển, bị chìm tàu, ai cũng sợ hãi, nhưng một người thiện nam bình tĩnh ngồi nhớ lại giới hạnh mình đã thọ trì và công đức bố thí mình đã thực hiện trước khi mình xuống tàu đi biển, vì vậy mà vị này vẫn bình tĩnh.
Có câu danh ngôn thế này: “Cầu nguyện không phải để thoát nạn mà là nhằm có sự bình tĩnh trong lúc lâm nạn”. Không hy vọng thoát rồi thì mình chọn cái chết trong bình tĩnh hay cái chết trong sợ hãi? Nếu phải chọn, thì hãy chọn cái chết trong bình tĩnh. Nếu 100% không đường thoát thì mình sẽ ra đi trong thanh thản, và nếu còn 0,1% con đường thoát thì con đường đó chỉ dành cho người bình tĩnh thôi. Trên máy bay, họ hướng dẫn cách sử dụng phao cứu hộ, cửa thoát hiểm, tôi cười thầm không biết có bao nhiêu tai nạn máy bay mà người ta sử dụng kiến thức thoát hiểm đó, tuy nhiên, có những trường hợp người ta thoát chết trong đường tơ kẽ tóc nhờ bình tĩnh, kẻ nào càng bình tĩnh thì cơ hội sống sót càng lớn.
Ông thiện nam này ngồi bình tĩnh và niệm tưởng giới hạnh. Bảy trăm người kia hỏi làm sao ổng có thể bình tĩnh như vậy, ổng nói: Tôi hết đường rồi, tôi cầu nguyện không phải để thoát nạn mà để bình tĩnh. Những người kia nghe vậy mới nói: Chúng tôi muốn thọ năm giới mà ông đã thọ. Nhưng để có sự tôn nghiêm của một lần thọ giới ở một nơi không có nhang đèn hoa quả thì làm sao bây giờ. Ông nói, giờ chia 700 người ra thành 7 nhóm, ông sẽ truyền năm giới cho từng nhóm. Lúc đó con tàu sắp chìm rồi.
Năm giới cũng ngắn lắm: Đệ tử phát nguyện trọn đời không sát sinh, đệ tử phát nguyện trọn đời không trộm cắp, đệ tử phát nguyện trọn đời không tà dâm, không uống rượu, không nói dối. Cứ thế từ nhóm 1, đến khi nhóm thứ 7 vừa đọc xong “Đệ tử phát nguyện trọn đời không uống chất say, chất kích thích”thì con tàu chìm, cả 700 người này được sanh thiên.
Ở đây phải nói thêm, 700 người này đều là có công đức đời trước chứ không phải nhờ công đức thọ giới ngay tại chỗ đâu. Sự nhất tâm của họ trong giây phút thập tử nhất sinh đó rất mạnh, cái mạnh đó trở thành nguồn tâm lực, phước lực đủ để sanh về cõi cao. Họ là những người có nội hàm, có căn cơ bản lĩnh, chớ không phải tay mơ như mình ở đây, mình bây giờ mà gặp Phật thì uổng thôi. Bây giờ nhiều người theo Phật nhưng toàn xà bần hổ lốn chớ không phải như những ngài Xá Lợi Phất, A Nan, Ca Diếp; Đức Phật bây giờ mà có ra đời cũng chỉ là dáng đứng cô đơn trong cõi mù sương hiu quạnh thôi.
700 vị này đi đâu cũng chung hội chung thuyền với nhau, một ngày kia kéo xuống hỏi đạo, nhớ lại duyên xưa vì đâu được sanh về đây, mỗi người đứng trước mặt Thế Tôn mà đọc bài kệ nói nỗi niềm tâm đắc của mình. Các bài kệ này có điểm giống nhau y hệt 3 câu đầu, chỉ khác câu thứ tư thôi:
Hãy thân với người lành,
Hãy gần gũi người thiện,
Biết diệu pháp người hiền
Theo chú giải, mấy ông này có biết gì đâu mà ‘diệu pháp’. ‘Diệu pháp’ mà họ nói trước mặt Thế Tôn ở đây ám chỉ cho năm giới thôi. Mấy ổng nhắc lại duyên xưa, may là ở gần gặp được ông thiện nam mà nay mới được sanh thiên nếu không là tiêu tùng cả đám, ý của bài kệ này là như vậy. Bài kệ này cũng không có gì khó hiểu, có một điều là Đức Thế Tôn thấy rõ ý của họ rất nghèo, rất cạn, không có sâu (được vui hơn, vui ở ngay thân nhân loại, vui được sanh về trời…). Có một ông còn nói nhờ giữ năm giới mà sinh ra được sung sướng.
Cuối cùng Đức Phật đúc kết lại: Đúng rồi, gặp gỡ, học hỏi người lành là tốt, nhưng không phải nhắm cái mục đích mà các ông nghĩ đến đâu, cái rốt ráo nhất ở đây là khi thân với người lành phải lắng nghe người lành nói con đường giải thoát, và thực hành như người bạn lành đã dạy mình. Việc lắng nghe và thực hành đó không nhằm để sanh thiên hưởng lạc, mà sự thân cận này không phải sống như cái muỗng nằm trong nồi canh, không biết tận dụng khai thác cơ hội để học hỏi. Lắng nghe diệu pháp là để học hỏi con đường giải thoát chứ không phải là năm giới. Cứu cánh cao nhất của việc thân cận người lành, hiền trí đó là chấm dứt sanh tử luân hồi chứ không phải để an lạc trong cõi nhân thiên.
Trong kinh nói số nước mắt đổ ra trong dòng luân hồi vì sanh ly tử biệt vì đau đớn bản thân nhiều hơn nước bốn biển; sữa mẹ mình uống trong dòng luân hồi nhiều hơn nước trong bốn biển. Nước trong bốn biển còn có giới hạn. Tính theo diện tích và chiều sâu của biển thì có thể biết được thể tích nước trong bốn biển nhưng dòng luân hồi thì tiền tiền vô thỉ, hậu hậu vô chung, nhìn tương lai mịt mịt mù mù như thế thì bốn biển kể gì. Với diện tích 9 triệu ki lô mét vuông, số cát trong sa mạc Sahara nhiều biết bao nhiêu, con số tuy lớn nhưng ít ra cũng còn có giới hạn trong khi dòng luân hồi thì thăm thẳm không có giới hạn. Trong dòng luân hồi biết bao nhiêu lần mình làm ác làm thiện. Rồi thì sao, sung sướng cho lắm thì cũng mắm với dưa, sung sướng vừa vừa thì cũng dưa với mắm, đã bao nhiêu kiếp mình đã ăn lạt, nếu không nhắm đến cứu cánh giải thoát thì cuộc luân hồi vẫn sẽ liên tục tái diễn, trùng phục đời này sang kiếp khác.
Vì vậy điều quan trọng nhất ở đây chính là kết thúc nó. Việc gặp gũi người lành không phải đơn giản là gặp mặt nhau trà dư tửu hậu mà là sự lắng nghe nhau và sự hành trì, thực hiện điều mình học hỏi được từ người hiền trí. Kiến thức Phật pháp của mình phải ở mức độ tác động trực tiếp và tích cực lên trên đời sống nội tâm của mình mới là học đúng, còn học cho lắm mà cái học cái biết cái hiểu của mình không tác động tích cực được lên đời sống tâm linh của mình thì cái học đó không có được bao nhiêu ý nghĩa.
Dù chỉ học một ít thôi mà cuộc đời mình vui hơn, bình thản hơn, tự tại vô ngại, có lòng yêu thương chúng sinh hơn. Còn nếu như thiếu duyên hoặc không gặp minh sư thiện hữu thì dễ bị điều này: 1/ Tự học thì học không nhiều, không chịu học. 2/ Có học cũng học dốt. 3/ Nếu học nhiều, cái học đó cũng không đủ để cho mình trở nên dễ thương hơn. Có người học cho nhiều chỉ để trở thành người uyên bác. Có người học nhiều để thêm hạnh nhẫn, hạnh vị tha. Có người nhẫn rất hay nhưng lòng thương người hơi thiếu. Có người thì vị tha, tốt bụng bao dung nhưng mặt tinh tấn thiền định hướng về tâm linh thì thờ ơ trễ nải.
Một cuộc tu vuông tròn thì phải có này có nọ, có ta có người. Có điều kiện gặp minh sư, thiện hữu, thì phải kịp thời tranh thủ khai thác triệt để bỏ túi hành trang cần thiết cho cuộc tu và cái học được từ bậc hiền trí phải có khả năng xoay chuyển tác động lên trên đời sống tinh thần của mình. Học hỏi như vậy đó mới là nên, chúng ta không phải là những con chuột bạch cho những vị tăng ni tu sĩ làm thí nghiệm. Họ nghĩ cái gì, thích cái gì, nhớ cái gì bèn xách ra nhét vô trong đầu mình bắt mình học.
Mình ăn còn kiêng cữ, kén chọn, tại sao đời sống tinh thần lại thiếu sự cẩn thận vậy? Đây là câu mà quí vị phải tự hỏi mình. Phụ nữ thì lấy son vẽ lên tấm gương trong nhà tắm để mỗi sáng rửa mặt nhớ đọc câu đó: Tại sao ta ăn kỹ mà học đạo ẩu vậy, ai nói sao nghe vậy ai nói bậy cũng nghe? Tại sao với tấm thân sinh lý thì e dè cẩn thận mà đời sống tinh thần bất cẩn dữ vậy? Rất là nhẹ dạ, cả tin chấp nhận những gì người ta ban cho mình là sao? Kiếp trước mình là con chuột bạch trong phòng thí nghiệm hay bây giờ mình đang chuẩn bị hành trang để mai mốt làm con chuột bạch.
Kinh Kalama nói, chớ vội tin những gì được truyền thuyết ghi lại, chớ vội tin những gì đã được bảo chứng từ nguồn nào đó trong tôn giáo hay xã hội (sư phụ nói như vậy, sách vở nói như vậy, tổ tiên đời xưa nói như vậy…). Trên đời này mọi thứ luôn luôn ở trong trạng thái thay đổi, có những nguyên lý, những công thức đúng ở không gian thời gian này nhưng ở không gian thời gian khác cần phải xét lại. Tất cả giải pháp trên đời này từ chính trị, văn hóa, tôn giáo đều mang ý nghĩa tạm thời.
Có những người đến học đạo với Đức Phật, Ngài nói về Thất Giác Chi, một lúc khác Ngài nói Bát Chánh Đạo, có người thì Ngài nói thu thúc lục căn, có người thì Ngài nói chỉ quán, có người thì Ngài nói Tam học, có người Ngài chỉ nói một câu: Nó làm sao thì thấy nó như vậy, có người Ngài nói một câu mà nghe còn nản nữa: Thấy vậy mà không phải vậy. Cứ niệm câu đó như con nít đi, đi ăn đi uống, đi vệ sinh, đi hành thiền cứ nhớ câu: “Thấy vậy mà không phải vậy”, bao nhiêu đó đủ thành thánh rồi. Mình tuyệt đối không bao giờ làm con chuột bạch cho bất cứ ai và hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành trình trước mắt của mình.
_______________________________________
Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.
Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ
Nhận xét
Đăng nhận xét