Chuyển đến nội dung chính

KINH NGHIỆM CẬN TỬ

KINH NGHIỆM CẬN TỬ 
(Sayadaw Uttamasara (1910-1995))
KINH NGHIỆM CẬN TỬ

Tu học để biết cách sống và để biết cách chết đều quan trọng như nhau. Ai ở đời này cũng phải có chút kinh nghiệm gì đó để mà đối diện cái chết mà ở đây ta gọi là kịnh nghiệm cận tử, vốn được nói đến rất nhiều trong Phật giáo.

Mỗi người đều có một hạnh nghiệp riêng. Đời sống của chúng ta phần lớn là tùy thuộc vào các tiền nghiệp. Chính tạ định đoạt đời mình chớ không phải ai khác. Chúng ta luôn hành động theo ý mình thích bằng cả hai khuynh hướng thiện ác và nói vậy có nghĩa là chính ý muốn ở mỗi người tốt xấu ra sao đó, sẽ quyết định hành trình sắp tới một cách rốt ráo thì biết cách chết hợp đạo còn quan trọng hơn là biết sống hợp đạo.

Dòng luân hồi dài thăm thẳm, chưa Niết Bàn thì chúng ta cứ liên tục mở ra những hành trình mới, đi lên hoặc đi xuống. Và một người Phật tử dĩ nhiên chỉ huân tập thiện nghiệp với ý hướng biến mình ngày một tốt hơn. Trong bài giảng này, nói về kinh nghiệm cận tử, tôi đặc biệt nhấn mạnh hai vấn đề:

- Nghiệp lý.

- Từ Tâm.

Nghĩa là người tu học phải luôn tự biết điều chỉnh Tam nghiệp cho chính mình và chỉ chỉ nhìn về người khác bằng tâm thái từ mẫn. Chúng ta phải luôn nhớ rằng cái gọi là sự sống luôn gắn liền với cái chết. Chính cái chết là một nửa của đời sống và cũng là điểm kết thúc của đời sống. Ai cũng phải chết một ngày nào đó nhưng nó không thật sự đáng sợ như người ta vẫn nghĩ. Nếu ta sống thanh thản thì sẽ có được cái chết thanh thản. Sống trong âu lo chắc chắn sẽ chết trong âu lo. Đây là điếu phải biết khi bắt đầu nói về kinh nghiệm cận tử. Theo tôi được biết thì trên thế giới này có biết bao nhiêu là chuyên ngành trường phái về khoa học, triết lý, tôn giáo, văn hóa nhưng có lẽ chỉ có Phật giáo là dạy người ta biết cách chết cách nào cho đúng.

Người Miến Điện có câu ngạn ngữ rằng "Cái quan tài chỉ đẹp khi ta có một đời sống đẹp”. Cho nên các Phật tử Miến Điện thường không nói thầy tôi chết mà lại nói thầy tôi vừa về trời, gần giống chữ Quy Tiên trong tiếng Việt.

Ta học Phật đều biết rằng một người dù có ra sao đi nữa nếu lúc ra đi lại nặng lòng với những tư tưởng bất thiện thì điều đó có nghĩa là công phu tu học của người này vẫn còn có chổ khiếm khuyết và từ đó chuyện sanh về lạc cảnh rất mong manh. Trong giây phút cận tử chúng ta không có thời gian để làm chuyện sám hối.

Tôi bây giờ già rồi và đã có dịp chứng kiến cái chết của rất nhiều tăng ni cư sĩ mãi đến tận lúc chết vẫn không có được cái kinh nghiệm cận tử đúng mức. Tôi nghĩ trong những trường hợp đó việc sa đọa gần như là đương nhiên. Và không phải ai trong số họ cũng có thể được giúp đỡ hay cứu độ. Người học A-tỳ-đàm biết rằng trong 4 cảnh giới sa đọa chỉ có ngạ quỷ là có cơ hội lớn nhất. Với 3 loài còn lại thì gần như bất khả. Tôi từng kể cho quý vị nghe về một người đàn tín của tôi phải bị mang kiếp thú trong vài tháng và sau đó cũng chỉ thoát được bằng nghiệp riêng của mình, không thể bằng sự gia trì của người khác. Lát nữa tôi sẽ kể cho quý vị nghe về câu chuyện của mẹ tôi và việc tôi đã giúp đỡ bà như thế nào. Nhưng bây giờ tôi muốn nói sâu hơn về kinh nghiệm cận tử mà quý vị nên biết.

Trong giây phút cận tử ta giống hệt như người chết đuối luôn quơ quào để nắm bắt bất cứ cái gì trong tầm tay. Người cận tử cũng vậy thường có khuynh hướng chạy theo cái gì mà lúc bình sinh gắn bó với mình nhất, thường là tình thân và tài sản. Tâm lý xả ly không phải muốn là có. Người học đạo phải biết rằng một khi ta đã có lòng thương thích người hay vật gì đó thì rất khó mà buông bỏ. Bởi đây chính là khuynh hướng của phàm phu. Một người muốn đi xa, muốn lên cao thì phải biết buông tay chứ.

Tất cả những quan hệ thân thương dù trong đạo hay ngoài đời cũng chỉ là sự gặp gỡ ngắn hạn trong đời này mà thôi. Dầu khó cách mấy ta cũng phải rán mà tập luyện thói quen lìa bỏ. Ai ở đời này cũng phải đi theo nghiệp riêng của mình. Cái chết là cánh cửa mở ra một hành trình mới, mỗi người phải từ đó ra đi một mình và chuyện tay xách nách mang chỉ khiến ta chìm xuống mà thôi. Trong kinh Phật dạy mưới pháp Thường Niệm (anussati) có nghĩa là những gì ta phải thường xuyên tâm niệm (anu+sati). Người cần tử phải có khả năng tự xét xem hạnh thí xả (cãga), giới hạnh và Chỉ Quán của mình xem có đủ là chỗ dựa lúc này hay không. 

Trong A-Tỳ-Đàm có nói đến bốn thứ nghiệp trong đời sống của chúng sinh là:

* Trọng Nghiệp (Garukamma): Các nghiệp thiện ác lớn lao.

* Thường Nghiệp (Ãcinnakamma): Các nghiệp thiện ác được ta lập đi lập lại nhiều lần trong đời.

* Khinh Thiểu Nghiệp (Katattakamma): Những nghiệp thiện ác rãi rác ít oi trong đời sống.

* Cận Tử Nghiệp (Ãsannakamma): Những nghiệp thiện ác được thực hiện ngay trước giờ mệnh chung.

Thông thường thì Thường Nghiệp và Cận Tử Nghiệp sẽ đóng vai trò quyết định việc tái sinh của người cận tử.

Mẹ tôi lúc sinh thời là một tín nữ ngoan đạo. Bà thích bố thí, thường xuyên thọ Bát Quan Trai và tu tập thiền định với sự hướng dẫn của chư tăng. Vậy mà lúc sắp lìa đời chừng đó thiện nghiệp cả đời vẫn không giúp được gì cho bà, chỉ vì bà thiếu kinh nghiệm cận tử. Chỉ có vậy mà phải sanh làm ngạ quỷ. Mẹ tôi mất ở làng quê ngày rằm tháng tám năm 1314 (lịch Miến Điện). Lúc đó tôi đang đi hoằng pháp ở Hukhaung. Sau khi trở về thì mới biết tin bà mất. Các vị thấy chưa, nói là mẩu tử tình thâm vậy mà phút cuối vẫn là đường ai nấy đi. Bà chết, một lòng đợi con về mà tôi đâu có về kịp cho bà nhìn mặt lần cuối. Lúc về tôi được nghe kể lại mẹ tôi đã mất ra sao. Trong những ngày cuối cùng, bà không ăn uống gì hết, cứ nằm thoi thóp trên giường, nhìn chằm chằm lên bức ảnh của tôi treo trên đầu giường. Lúc đó nhằm mùa gió nồm, đêm thường có mưa. Trong mưa đêm bà cứ khóc và gọi tên tôi rồi nói với mấy người chung quanh: "Mẹ không còn dịp thấy sư nữa rồi”. Ôi bao la thay là tình mẹ.

Khi tôi về tới chùa thì việc an táng bà cũng đã xong từ lâu. Có thương mẹ đến mấy thì tôi cũng phải ráng mà xem như mọi sự đã qua. Nhiều năm sau đó, tôi đã nằm mơ thấy mẹ tôi về, vẻ mặt buồn lắm, vóc người hao gầy, đứng trước sân chùa nhìn tôi và chỉ nói một câu: "Sư cho mẹ xin một lá y". Lúc choàng tỉnh dậy, nhớ lại giấc mơ tôi nghĩ có lẽ mẹ tôi đã sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Ngay sau đó tôi đưa chị cả của tôi một bộ y mới và bảo chị làm lễ cúng dường cho chư tăng trong ngôi chùa làng ở quê. Tôi đặn kỹ chị tôi là trước khi lên chùa nên khấn trước với mẹ để mời bà cùng đi.

Sau lễ trai tăng, chị tôi thấy mẹ về. Chị hỏi mẹ có nhận được phước hồi hướng hay chưa. Bà cho biết là vì chị tôi đã không nhớ mời bà cùng đi nên bà không thể tới chùa hôm đó được. Chị tôi phải làm thêm một lễ trai tăng nữa theo hướng dẫn của bà và từ sau ngày ấy không thấy bà về nữa.

Tôi phải nói là mình may mắn khi có đủ điều kiện để trả hiếu cho mẹ tôi theo đúng lời Phật dạy là lo được cho mẹ lúc sinh thời và cũng biết cách giúp mẹ khi bà đã mất.

Các vị có tin là mẹ tôi trước sau vẫn nặng lòng với mấy đứa con nên sau khi nhận được phước hồi hướng bà quay lại gia đình tôi lần nữa, bằng cách sanh làm đứa con gái của anh cả tôi và được đặt tên là Misan. Tính theo vai vế thì là cháu nội của mẹ tôi. Chúng tôi biết được chuyện này là bởi vì bé Misan có thể kể lại tường tận những chuyện riêng tư của bà nội như là chuyện của mình. Đặc biệt khi nhìn thấy nấm mộ của bà nội thì bé khóc rất nhiều. Năm nay Misan đã 26 tuổi và lần nào tôi về lạng, Misan cũng đến cúng dường thức ăn. Cô lạ lùng lắm, rất thích ngồi gần cạnh tôi và nhìn tôi hoài không chán.

Các vị thấy chưa, tham ái được Phật gọi là Kiết Sử (samyojana), là sợi giầy trói buộc rất khó tháo cởi. Chính nó đưa ta đi tái sanh và cũng chính nó làm ta khổ: Khổ vì thương và khổ vì ghét. Không có thương thì không có ghét. Mà cả hai thứ này đều từ tham ái mà ra.

Chuyện về mẹ tôi cũng là một bài học chung cho quý vị. Thường Nghiệp dĩ nhiên quan trọng, nhưng Cận Tử Nghiệp cũng quan trọng không kém. Và cốt lõi của kinh nghiệm cận tử chính là sự tự tin vào thiện pháp (Trọng Nghiệp, Thường Nghiệp, Khinh Thiểu Nghiệp) của mình thuở bình sinh và chính sự tự tin này sẽ là Cận Tử Nghiệp cho người sắp chết. Trong kinh có kể lại nhiều tiền kiếp của Bồ Tát và cho biết ngài thường rất can đảm, không sợ chết, chỉ vì vững tin vào thiện nghiệp của mình mà đôi khi chính ngài cũng không biết tại sao. Một người bình thường đôi khi cũng có vẻ liều mạng, cứng miệng bảo mình không sợ chết, nhưng khi nhìn thấy những hình ảnh Nghiệp Tướng (kammanimitta - hình ảnh sinh hoạt thuở bình sinh) hay Thú Tướng (gatinimitta - điềm báo mình sẽ sinh về đâu) thì ai cũng khiếp đảm. Chỉ có người nhiều phước báo thì mới có thể một dạ vững tin trước mọi tình huống. Thậm chí dầu có thấy Thú Tướng bất thiện thì cũng có thể biến xấu thành tốt.

Để minh họa cho điều này, tôi kể bà con nghe câu chuyện sau đây: Ngôi chùa làng ở quê tôi có một ông thiện nam rất hào sảng, tên U Myu. Ông là một thí chủ lớn ở chùa, thích bố thí, thích nghe pháp nhưng trí nhớ rất kém. Có điều là ông ít nói và giàu Từ Tâm. Từ bé đến lúc chết một con kiến cũng không giết. Ông sống thọ lắm, trên 90 tuổi, Ngày Ông gần mất, tôi vừa từ Ấn độ trở về và có đến thăm ông. Thấy ông luôn an lạc và dễ thương, tôi hỏi ông đã làm sao để có thể sống được như vậy. Ông kể chuyện cho tôi nghe:

"Từ sau lúc vợ mất ông về sống chung với vợ chồng đứa con gái và được họ chăm sóc rất chu đáo. Ông nói, trong số tài sản của ông có một chiếc xe bò, ông thường lót rơm lên đó để ngồi và cho người đánh xe bò đi chầm chậm quanh ngôi chùa mà ông đã một thời hộ trì bằng tất cả khả năng vật chất”. Rõ ràng là ông đã rất hạnh phúc trong những chuyến đi như vậy và nói theo trong kinh thì ông đã từng ngày hành trì pháp môn Thường Niệm Thí (Hồi tưởng hạnh bố thí của mình) theo một cách rất cụ thể là thay vì nhắm mắt mà nhớ thì ông lại chọn cách mở mắt để nhìn. Ông sống thanh thản và giờ phút ra đi cũng rất nhẹ nhàng. Tôi không chắc được là ông đã sanh thiên nhưng không biết vì sao cứ có niềm tin là chỗ ông về không đến nỗi tệ.

Trong lịch sử Tích Lan có ghi lại câu chuyện về vua Dutthagamani, một vị hoàng đế mà chuyện đời có rất nhiều nét giống hệt với vua A Dục. Ông cũng có một thời thích đánh trận, để đối phó với tộc người Tamil. Mục đích của ông ngoài việc bảo vệ người Tích Lan, còn nhằm mục đích mở rộng địa bàn hoằng pháp cho chư tăng. Các bộ giáo sử của Tích Lan ghi rằng vua chưa bao giờ có một ngày quên cúng dường chư tăng trước khi ngự thiện. Có một lần khi đánh trận ngoài chiến trường ông đã quên đem cơm đặt bát cho chư tăng. Ông cho đó là một sự vi phạm thói quen tốt. Sau khi bình định thiên hạ, vua về cho xây một ngôi bảo tháo cao 20 thước tây, hình dáng một quả ớt và đặt tên là "Tháp Ớt" (maricavati) để nhắc mình về bữa ăn đó. Tổng cộng trong đời mình, ông đã trải qua 29 trận đánh và người bạn thân nhất của ông là tướng Abhaya sau đó đã đi xuất gia và chứng quả La Hán Lục Thông. Hôm vua sắp mất, vua rất sợ hãi và ngài Abhaya đã biết được, liền đến thăm vua.

Ngài dạy cho vua về Danh Sắc để vua tu tập Tuệ Quán, nhưng thấy vua không thể tiếp thu lời dạy của mình, nên ngài Abhaya đã thay đổi cách thức. Ngài nhắc cho vua nhớ lại những phước báo cụ thể mà vua đã làm trong cuộc đời Phật tử của mình. Đặc biệt ngài nhắc lại cho vua một ký ức đẹp là vua đã từng nhịn ăn để nhường phần cơm cho một vị trưởng lão lúc vua đang đi đánh trận trên đường. Và một lần khác, trong lúc ngặt nghèo ở một làng quê xa xôi, vua đã tháo hết tư trang vàng ngọc trên người của mình để đổi lấy thức ăn đặt bát cho chư tăng. Vua đã ra đi với những hồi ức đó và được sanh về Đao Lợi Thiên. Trong trường hợp này, Khinh Thiếu Nghiệp đã trở thành Cận Tử Nghiệp.

Nói như nảy giờ thì kinh nghiệm cận tử của một người học đạo luôn nằm gọn trong hai cách chuẩn bị tâm lý gồm Ý hướng (cetanà) và Hồi ức (anussarana).

* Ý hướng hay sự Hướng tâm là lòng lìa bỏ những gì bất thiện để hướng tâm đến cái gì cao hơn, cái gì có nội dung buông bỏ tháo cởi.

* Hồi ức ở đây chỉ là sự hồi tưởng tức nhớ lại những gì thuộc thiện pháp. Trong thân xác một người cận tứ, cái gì cũng trong tình trạng bệ rạc, xáo trộn (disfuntion), nên chỗ dựa duy nhất lúc này chỉ còn là tinh thần, tốt nhờ xấu chịu. Một người thiếu phước hay không học đạo, có thấy được cảnh lành trong giờ cận tử cũng không biết tận dụng. Ngược lại một người có học đạo nhiều phước báo khi gặp phải cảnh cận tử bât thiện thì họ cũng có thể chuyển hóa để tự cứu mình. Trong kinh có kể lại có rất nhiều trường hợp những người lúc lâm chung thấy lửa địa ngục lại nghĩ tưởng đến màu y mà mình đã cúng dường và nhờ vậy cùng được sanh về lạc cảnh. Như vậy hình ảnh Thú Tướng hay Nghiệp Tướng không phải là cái gì tuyệt đối. Chúng chỉ giống như một nhúm lá héo báo cho ta biết chỗ đó thiếu nước, nếu ta tưới nước kịp thời thì tình hình vẫn còn có thể cứu vãn.

Trong kinh có cho ta một minh họa về cái gọi là nghiệp cận tử. Đó là hình ảnh một chuồng bò buổi sáng sớm: Không hẳn con bò mạnh nhất chùa sẽ là con rời chuồng đầu tiên mà là con nào đứng gần cửa chuồng nhất. Trong nhiều đời quá khứ và ngay kiếp sống hiện tại, mỗi người đều đã tạo vô số nghiệp thiện ác, chúng như một bầy bò đông đúc trong chuồng. Chính ý hướng và hồi ức lúc cận tử sẽ giúp ta có được thiện nghiệp cận tử theo cách đẩy chúng đến gần cửa chuồng nhất. Cho nên cách hộ niệm thông minh nhất cho người hấp hối là giúp họ có được thiện nghiệp cuối đời bằng một trong hai cách: Hướng tâm và Hồi ức. Tùy người mà hai cách này thích hợp cái nào: Có người hợp với cách Hồi ức và có người họp với cách Hướng tâm. Ngay trong cách Hồi ức ở mỗi người cũng khác nhau: Có người nhớ lại Trọng nghiệp, có người nhớ lại Thường Nghiệp, đôi khi Khinh Thiểu Nghiệp và dĩ nhiên có người khắn khít với Cận Tử Nghiệp.

Ở trên, tôi đã kể cho quý vị nghe câu chuyện về ông cụ U Myu, một thí chủ lớn ở ngôi chùa làng quê tôi. Cụ có một người bạn thân là ông U Koe, cũng là một phật tử tỉnh tấn và hai ông giống nhau ở điểm là đều mất vợ sớm. Cụ U Myu thì sông với vợ chồng đứa con gái, còn cụ U Koe thì sống một mình. Ngày nào cụ cũng tới chùa và đến lễ Phật trước bức tượng cẩm thạch mà thời trẻ cụ đã bỏ tiền hiến cúng để thỉnh về từ Mandalay.

Trong những ngày cuối đời của cụ tôi có gặp lại và nghe cụ nói một câu làm tôi thất vọng. Cụ nói trước khi chết chỉ mong được gặp lại mấy đứa con và điều cụ e sợ nhất lúc này chỉ là không còn dịp gặp lại họ. Tôi đã giải thích cho cụ nhớ rằng tất cả mọi quan hệ tình cảm trong dòng sanh tử thực ra chỉ là những túi hành lý không cần thiết cho chuyến tàu sanh tử. Không bỏ được chúng xuống thì ta khó mà lên cao hoặc đi xa được. Tôi nhớ ông cụ đã lau nước mắt và hứa với tôi rằng sẽ làm được như lời tôi nói, sẽ quên được mấy đứa con để chuẩn bị cái chết cho mình. Điều cuối cùng tôi được biết về ông cụ là ông đã sống rất thọ và ra đi rất nhẹ nhàng.

Trong kinh Tương Ưng có kể lại một câu chuyện đã xảy ra thời Đức Phật về một nhóm thủy thủ đã chết do bị chìm tàu và đều được sanh thiên. Kinh ghi rằng họ đã kịp thời an trú Tín tâm nơi Tam Bảo và phát nguyện quy giới trước giờ cận tử. Họ đã làm được một việc dễ hiểu nhưng khó làm là khi biết phải bỏ mạng thì lòng họ cũng buông hết mọi thứ đế chỉ nhớ về cái gì thật sự cần thiết.

Nói là Thập Thiện Nghiệp nhưng người Phật tử chỉ cần tập trung vào ba thiện nghiệp đầu, với sự hỗ trợ của sự thiện nghiệp thứ mười (điều chỉnh tri kiến) thì các thiện nghiệp còn lại cũng sẽ tự có. Trong phút cận tử, theo kinh nghiệm của tôi thì chỉ có 3 thứ thiện nghiệp được xem là dễ hồi tưởng nhất, dễ cấu thành Cận tử nghiệp nhất. Đó là Bố thí, Trì Giới và Chỉ Quán (ở đây gọi chung là Bhavana).

Tất cả thiện nghiệp lúc bình sinh hay cận tử mà ta làm được đều phải nhờ vào một điều kiện hết sức quan trọng mà ít người Phật tử để ý đó là bạn lành, gồm chung những người hơn ta, bằng ta hoặc kém ta miễn là người có lòng lành thì gọi là bạn lành. Chỉ có gần họ thì ta mới có thể dễ dàng phát khởi thiện tâm, huân tu thiện nghiệp một cách liên tục. Trong câu chuyện về các thủy thủ vừa nhắc ở trên, có một đoạn rất quan trọng nhắc lại điều mà tôi vừa nói: Các thủy thủ lúc xuống hầu Phật ở chùa Kỳ Viên đã thưa với Ngài rằng không một thứ gì ở đời có thể đổi được một người bạn tốt, họ xác định việc sanh thiên hôm nay cũng nhờ có được người bạn tốt.

Nói vậy có nghĩa là kinh nghiệm cận tử phải được chuẩn bị ngay khi ta còn sống, còn trẻ, còn khoẻ, chớ không phải đợi đến lúc sắp chết. Nói vậy cũng có nghĩa là sự chuẩn bị cái chết không nằm ngoài kinh nghiệm sống.

Ta nên nhớ rằng đừng bao giờ thấy là đủ với những công đức có thể làm được trong đời sống. Thực ra bao nhiêu cũng có thể nói là thiếu. Trong bài giảng này tôi muốn kể cho bà con nghe nhiều chuyên vui và buồn trong kinh nghiệm tu học của tôi.

Có người một đời chỉ tu học sơ sài nhưng có một kinh nghiệm cần tử thật tốt đệp đến mức khiến tôi tin là họ có thể đã sinh thiên. Nhưng thật đáng ngại khi có nhiều người cả đời tu học thật đàng hoàng nhưng chỉ vì mộ phút xao lòng cuối đời mà bỏ mất lý tưởng Phật Pháp. Có nghĩa là làm thiện bao nhiêu cũng có thể là thiếu, phải đến lúc cuối đời mới biết mình đậu hay rớt trong lớp học nhân sinh ấy. Phật pháp thì mênh mông như biển như trời, tôi thường chọn những pháp môn vừa tầm với đại chúng cư sĩ để hướng dẫn mọi người như pháp môn Niệm ân đức Phật, Niệm ân đức Pháp, ân đức Tăng, Niệm Tam quy, Niệm Bất Tịnh, Niệm Thí, Niệm Giới. Có người suốt đời chỉ hành trì một góc nhỏ trong số đó cũng đủ an lạc. Có người thứ gì cũng xuất sắc mà cuối đời lại bỏ cuộc, sống chết đều quạnh hiu. Đó là câu chuyện buồn về một người học trò của tôi, ông Hla Shwe quê ở Pakokku. Ông này vốn là lính giải ngũ và bị điếc một bên tai do tai nạn chiến trường. Hla Shwe mồ côi cha khi còn bé. Sau khi giải ngũ ông về sống với mẹ ở Pakokku. Mẹ mất, ông về Gan-gaw. Ông đến xin học thiền với tôi mấy hôm rồi sau đó xin được xuất gia. Có thế nói ông là người học trò mà tôi thương nhất đời. Nói gì cũng nghe, dạy gì cũng nhớ cũng hiểu đễ dàng. Nói cho đúng thì ông chỉ xin tu gieo duyên, nhưng vì tình riêng, tôi cứ mong ông sẽ xuất gia suốt đời. Vậy mà có một ngày, ông vào đảnh lễ dưới chân tôi đế xin hoàn tục. Ông nhắc lại chuyện xưa, cho biết trước khi đi lính đã từng có vợ và con, nhưng vợ con ông cũng đã chết trong chiến tranh và bây giờ ở tuổi này bồng nhiên ông cứ thèm có lại một tổ ấm kiểu đó lần nữa.

Không giữ ông lại được, tôi đành để ông hoàn tục. Chuyện bằng đi nhiều năm, sau này tôi được nghe lại là ông đã chết vì bệnh sốt rét, gia tài chỉ là một ít tiền đủ để làm đám tang và trước khi mất, ông từng có tâm nguyện là nếu chuyến này hết bệnh sẽ tìm lại sư phụ, là tôi, để xuất gia. Nhưng tâm nguyện đó vĩnh viễn dở dang.
Các vị thấy chưa, ở đây có ai dám nói mình tu học tốt hơn Hla Shwe. Vậy mà cái kết cục của ông này lại buồn đến vậy. Nếu bây giờ có ai hỏi tôi phải làm sao để sống cho tốt và chết cho đẹp thì tôi sẽ trả lời ngắn gọn rằng một người cư sĩ chỉ cần có được niềm tin nơi tam bảo một cách sắc son thông qua một nhận thức sâu sắc tại sao tôi lại tin tam bảo. Với một người cư sĩ có lẽ chỉ ngắn gọn vậy thôi là đủ: Tin và Hiểu tại sao mình tin. Tôi e rằng những người tu học dở dang đã không có được hai thứ này.

Chỉ có niềm tin Tam Bảo theo cách này thì người ta mới có thể vững bước lúc sống và thanh thản lúc chết. Hồi đệ nhị thế chiến, quân đội Nhật bản kiểm soát toàn cõi Miến Điện, lần đó có một toán lính Nhật kéo đến Shwe Bo tàn phá mọi thứ rồi rút đi, cả địa phương rơi vào tình trạng vô chính phủ, trộm cướp hoành hành ngày đêm không ai can thiệp. Đêm đó một ngôi chùa làng ở Shwe Bo bị cướp vào đánh. Chúng bắt hết chư tăng trói lại và lôi ra sau chùa để chôn sống tập thể. Trụ trì của chùa là ngài U Vãyãma biết mình không thể qua được nạn này nên có xin bọn cướp cho mình vài phút Niệm Phật trước khi chúng lấp đất chôn sống. Lúc đó ngài U Vãyãma bước xuống ngồi trong đáy hố và chấp tay lên trán đọc tới lui mấy câu Tam Quy bằng tiếng Pãli. Đúng ngay lúc đó một trận mưa cực lớn đã đổ xuống một cách bất ngờ và chỉ vài phút trước đó cả khu đất tràn ngập ánh trăng rằm vậy mà bây giờ mọi thứ tối đen, một bàn tay để trước mặt cũng không nhìn thấy. Chính hiện tượng kỳ quái này đã khiến bọn cướp hoảng sợ và bỏ chạy. Ngài Vãyãma kể lại rằng sợi dây trói ngài lúc ấy cũng tự dưng tháo ra như có bàn tay ai giúp đỡ. Ngài về chùa bình yên.

Chuyển hóa đời sống bằng Thiền Định

Tôi vừa nói ở trên rằng là Thập Thiện có thể thụ gọn trong 3 thiện pháp đầu tiên là Thí, Giới và Thiền, Rất nhiều người tự cho mình không thể hành thiền, có người lại cho rằng pháp môn thiền định sẽ làm cho đời sống héo úa, chỉ khiến người ta già đi cho nên chỉ có tuổi già mới thích hợp với pháp môn thiền định Chỉ Quán. Thật ra, cả hai cách nghĩ đều sai lầm bởi vì chỉ có đắc thánh mới khó, còn tu thiền thì tùy sức mà tu. Càng trẻ, càng khỏe thì chuyện tu thiền càng dễ chứ sao.

Các vị biết rồi, trong một đời người ta đâu có được bao nhiêu dịp để tạo công đức Trọng Nghiệp, mà hầu hết có ráng lắm thì cũng chỉ là công đức Thường Nghiệp mà thôi. Tức những gì ta làm được trong suốt cuộc đời của mình, từ năm này sang tháng khác. Và ta cũng biết không có gì trong đời sống mỗi người lại thường xuyên và liên tục như hơi thở vào ra, ở bất cứ nơi đâu và lúc nào. Do đó sống Chánh Niệm qua từng hơi thở chính là một cách tạo thường nghiệp dễ nhất và tiện nhất: Bất cứ nơi đâu và lúc nào, cứ hướng tâm Chánh Niệm vào hơi thở là coi như ta đang gieo trồng Thường Nghiệp thiện pháp. Các pháp môn khác như Niệm Phật hay Từ Tâm có thể không được dễ dàng như vậy, bởi đề mục nào cũng cần đến bối cảnh đặc biệt, không như đề mục hơi thở.

Một lẽ nữa, nói tới đời sống là phải nói tới hơi thở. Lúc bệnh ta thở khác, lúc khoẻ ta thở khác. Lúc vui ta thở khác, lúc buồn giận ta thở khác. Vấn đề của hành giả là dù cảm thọ có đổi khác nhưng Chánh Niêm trong hơi thở thì không đổi khác. Nói vậy cũng có nghĩa là ngay từ bây giờ hành giả phải tập làm quen với những biến động của cảm thọ, một trong bốn Niệm Xứ. Dù chỉ là một trong bốn nhưng rõ ràng cảm thọ là một gương mặt nổi bật của Danh Sắc mà hành giả đễ đàng cảm nhận nhất. Kêu một người dốt phân biệt cái nào là Danh, cái nào là Sắc, tâm nào là thiện, tâm nào là bất thiện, cái nào là Triền Cái, cái nào là Giác Chi ... thì rất khó. Nhưng thử kêu anh tạ phân biệt cái gì đễ chịu, khó chịu thì hình như mọi sự dễ dàng hơn nhiều. Một người niệm yếu khó giữ tâm với những cảm thọ mà mình chịu đựng được. Từ đó mà hiểu, cảm thọ lúc khoẻ dễ kham nhẫn và Chánh Niệm hơn lúc đau, lúc trẻ dễ hơn lúc già, lúc sống dễ hơn lúc cận tử.

Cảm thọ lúc cận tử rất đặc biệt, có thể ta chưa từng biết qua lần nào trong đời nên ta phải tập đối diện với nó bằng những cảm thọ lúc còn sống. Lúc trẻ niệm được thì lúc già mới hy vọng niệm được, lúc bình thường niệm được thì mới hy vọng lúc cận tử niệm được. Sự đau bệnh và cái chết đến không cần hẹn nên để chuẩn bị Chánh Niệm cho hai sự cố này cũng không thể hẹn lại tuổi nào.

Một lẽ nữa chỉ có hành giả niệm thở mới có nhiều cơ hội đối diện với cái chết trong từng phút. Kinh nghiệm này được lập đi lập lại nhiều lần sẽ giúp hành giả không còn sợ chết nữa vì theo vị này cái chết chỉ là một hơi thở ra. Nghĩa là phút nào cũng có chết. Làm chủ được cảm thọ và hơi thở thì đau bệnh và cái chết đối với hành giả không còn đáng sợ nữa. Kiên Cố Định, tính từ Sơ Thiền trở lên thì không phải ai muốn cũng được nhưng từ Cận Định trở xuống thì một người tu đúng phương pháp hoàn toàn có thể hy vọng. Cận Định được lập lại nhiều lần và liên tục cũng mạnh không kém sơ thiền. Và nát-na Định được lập lại nhiều lần thì cũng mạnh không kém Cận Định. Đây là lời giải thích cho câu chuyện vị tỳ kheo đã sanh thiên rồi mà cứ tưởng mình còn là tỳ kheo ở cõi người.
(Bài giảng của Ngài năm 1989)
Trích sách: 
"Kinh nghiệm Tuệ Quán qua các dòng thiền miến điện"
 Quyển 1 do TK Giác Nguyên dịch Việt

Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.