Chuyển đến nội dung chính

Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 111. Sao Đức Thế Tôn lại có lời nói khiếm nhã?

111. Sao Đức Thế Tôn lại có lời nói khiếm nhã?
Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 111. Sao Đức Thế Tôn lại có lời nói khiếm nhã?

- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn là đấng Toàn Thiện nên luôn luôn có thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh và ý thiện hạnh, phải thế chăng?
- Vâng, đúng thế!
- Lời Ngài nói ra bao giờ cũng dịu ngọt, hòa nhã, từ ái, làm mát mẻ đầu óc của mọi người, làm hoan hỷ đôi tai của mọi người, phải thế không, đại đức?
- Quả vậy!
- Thế tại sao khi tỳ khưu Sudinna hành dâm với người vợ cũ, Đức Thế Tôn cấm chế điều luật bất cọng trụ, Ngài đã nguyền rủa tỳ khưu Sudinna là người trống rỗng. Đại đức có biết người trống rỗng là từ rất nặng lời chăng? Ấy là lời khiếm nhã, khinh bỉ, miệt thị... mà người ta chỉ sử dụng khi chiến tranh bằng binh khí miệng lưỡi! Do vậy, khi nghe Đức Thế Tôn mạt sát mình bằng lời người trống rỗng, tỳ khưu Sudinna khuôn mặt tái xanh, run rẫy, sợ hãi...
Thưa đại đức, như thế rõ ràng Đức Thế Tôn đã ác khẩu, đã nói lời như gai đâm trong óc, như lửa đốt trong tai, chứ từ hòa, hiền dịu, mát mẻ ở chỗ nào? Đại đức hãy cố biện minh cho Đức Thế Tôn thử xem?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Bần tăng sẽ không biện minh, chỉ nói ra sự thật cùng những ý nghĩa từ sự thật ấy. Ngoài ra, đại vương sẽ có cơ hội biết thêm một vài trường hợp trí tuệ thiện xảo mà Đức Thế Tôn đã sử dụng để giáo hóa chúng sanh!
Đức vua Mi-lan-đà cũng mỉm cười:
- Có lẽ đại đức đang bắt đầu một cuộc biện minh thiện xảo rồi đấy! Trẫm đang cố gắng lắng nghe!
- Vâng, tâu đại vương! Nhóm từ Mogha purisa mà người ta dịch là "người trống rỗng" thực ra mang ý nghĩa về giáo pháp chứ không phải lời miệt thị, khinh bỉ như thế gian thường hiểu. Mogha purisa là người trống rỗng, nghĩa là trong con người của y trống rỗng tri thức, trống rỗng trình độ, trống rỗng pháp lành, trống rỗng trí tuệ, nói chính xác hơn là trống rỗng về sự thấy biết khổ, nguyên nhân khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ! Nói cách khác, đó là sự trống rỗng về nhận thức tứ đế. Người nào mà trống rỗng nhận thức về tứ đế sẽ dễ có những hành động lầm lạc, ngu si; và dẫu cho họ có tu hành, bố thí, làm phước - thì sự tu hành ấy cũng không đi đến đâu. Tỳ khưu Sudinna là một con người như vậy nên Đức Thế Tôn đã nói lên sự thật, đã ghép y vào loại người trống rỗng, điều đó đúng với sự thật, chứ Đức Tôn Sư nào phải ác khẩu, khiếm nhã, khinh miệt ai bao giờ!
- Rất cao siêu là cái nghĩa ấy, nhưng thưa đại đức, mấy ai hiểu được ý nghĩa cao siêu như đại đức! Người ta vẫn hiểu theo thường ngữ, "người trống rỗng" là người ngu si, hèn hạ, là người đáng phỉ nhổ, khinh bỉ mà thôi. Người cư sĩ tại gia nói riêng, và người đời nói chung chỉ hiểu đó là lời chưởi mắng cộc cằn, thô lỗ. Dù sự thật như thế nào, tỳ khưu Sudinna có tội như thế nào - thì Đức Thế Tôn cũng đã mắng chưởi người ta; ấy là một việc làm không thích đáng, là khẩu trược hạnh, chẳng xứng phẩm hạnh của một Đấng Toàn Thiện như Đức Thế Tôn!
- Cũng được - đại đức Na-tiên mỉm cười - hiểu theo nghĩa thế gian cũng được, hoặc hiểu theo nghĩa thường thường cũng được. Ví như đại vương là một bậc minh quân thiên hạ, đại vương thấy có một vài viên quan hành động ngu si, sai trật, có tội. Khi thấy như vậy, đại vương có kêu những viên quan ấy đến gần một bên rồi nói lời từ hòa, mát mẻ, dịu ngọt, êm ái lỗ tai... và sau đó ban thưởng nhiều vàng bạc, phẩm vật quý giá?
- Ban thưởng sao được, đối với những viên quan hư hỏng, tồi tệ ấy, trẫm sẽ kêu lại mắng chửi, phạt tù hoặc phạt cảnh cáo... để chúng sợ hãi mà trở nên người tốt hơn - chứ ai nào lại kêu tới mà dịu ngọt, mà từ ái, mà ban thưởng! Họa là đồ điên!
- Đức Thế Tôn cũng xử sự tương tự như đại vương vậy! Tỳ khưu Sudinna có tội bởi tư cách hành động sái quấy của y. Con người y đáng bị khiển trách. Đức Thế Tôn kêu lại, Ngài không mắng chửi, miệt thị - mà chỉ dùng từ "trống rỗng" để nói lên sự thật, để chỉ thẳng vào sự thật nơi con người y. Thế thôi, Đức Thế Tôn cũng chưa quát mắng, phạt cảnh cáo hoặc phạt tù như ý nghĩ của đại vương! Trường hợp ấy, lẽ nào Đức Thế Tôn lại nói lời hoan hỷ đầu óc, mát mẻ đôi tai, từ hòa, ngon ngọt... đối với tỳ khưu Sudinna, phải thế không đại vương?
- Lý luận của đại đức không có kẻ hở, trẫm rất tín phục!
- Không dám!
- Và nhờ vậy, trẫm hiểu thêm một điều là, Đức Thế Tôn là bậc Toàn Thiện, luôn luôn thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh; nghĩa là thân khẩu ý của Ngài không còn bị điều động, thúc phược bởi tham sân, phiền não. Thân khẩu ý của Ngài đã diệt tận chúng, đã đoạn lìa chúng tận gốc rễ. Nhưng khi giáo hóa chúng sanh thì Ngài chỉ nghĩ đến lợi ích cho chúng sanh, tùy nghi, tùy lúc mà sử dụng thân, khẩu, ý ấy. Cốt ý là chỉ để cho chúng sanh tự thấy lỗi của mình, thấy rõ đâu trược, đâu thanh... để lần hồi cải thiện bản thân cho đúng với pháp, với sự thật...
Thưa đại đức, đến ngang đây, trẫm liên tưởng đến câu hỏi trước, rằng Đức Phật lại tùy bịnh cho thuốc, không biết có đúng chăng?
- Hoàn toàn đúng, tâu đại vương! Ví như một bệnh nhân có nhiều đàm, thầy thuốc cho uống thuốc xổ đàm là dứt bệnh. Chúng sanh tham sân tích lũy lâu ngày, cái tâm của của chúng sanh cũng bị uất chướng, đầy hơi... nên những loại đàm như hận, tật, xan, hối, dục, bỏn xẻn, keo kiệt, mạn v.v... đã trở nên trầm kha bất trị! Vì tâm bi mẫn đối với chúng sanh, vì muốn cứu độ chúng sanh, nếu thuốc xổ kia khó uống quá, đắng quá, chát quá... thì có vì thế mà chúng ta nghĩ rằng Đức Thế Tôn không có lòng từ, không có lòng bi chăng hở đại vương?
- Thật không thể!
- Và giả dụ Đức Thế Tôn có dùng lời pharusa - tức là hơi cộc cằn thô lỗ - như vị thuốc quá đắng cay, cốt dứt trừ bệnh cho chúng sanh, thì có khả thứ không hở đại vương?
- Được lắm chứ!
- Nhưng ở đây không như thế, Đức Thế Tôn không dùng lời pharusa mà chỉ dùng lời hơi nghiêm khắc - thì ta có vì vậy mà bảo rằng Đức Thế Tôn đánh mất tâm từ, tâm bi không hở đại vương?
- Cảm ơn đại đức, trẫm hiểu rồi.
- Ví như sức nóng có khả năng làm cho các đồ vật dính liền với nhau, làm cho vật mềm lại - những lời nói của Đức Thế Tôn có tỏa ra sức nóng, thì sức nóng ấy cũng chỉ cốt làm cho chúng sanh sợ hãi mà lìa xa ác hạnh, trược hạnh mà thôi! Một người cha có tâm từ mẫn với con cái thì dù có la rầy, mắng nhiếc, nghiêm khắc chăng nữa, cũng chỉ mong cho con được nên người, phải thế không đại vương?
- Thưa vâng.
- Thế gian truyền rằng hễ ai uống nước trường sanh bất tử vào thì cả thân tâm đều mát mẻ, hưởng được an vui hạnh phúc thiên niên. Giáo pháp năng diệt khổ của Đức Thế Tôn cũng y như thế, ai uống vào rồi thì những ác nghiệp lần hồi nhẹ bớt, phiền não lần hồi tiêu tan... và đến lúc nhân duyên đủ đầy thì thọ hưởng được hạnh phúc giải thóat cuối cùng. Đấy là kết quả do giáo pháp và do tâm bi mẫn giáo hóa độ sinh của Đức Thế Tôn. Như một cánh hoa nhẹ nhàng rơi lên thân thể, giáo pháp và tâm bi mẫn của Đức Thế Tôn cũng y như thế, lẽ nào lại có thể làm người khác đau đớn được, hở đại vương?
- Vâng, đúng thế. Trẫm rất tán dương và hoan hỷ lời giải đáp của đại đức. Quả thật, Đức Thế Tôn xuất hiện ở đời là vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người! Giáo pháp và tâm bi mẫn của Ngài đủ để chứng minh cho sự thật ấy!
- Cảm ơn đại vương!
* * *
Bài viết được chúng tôi trích từ cuốn sách "MI TIÊN VẤN ĐÁP"
do Hòa thượng Giới Nghiêm dịch sang tiếng Việt, Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính



Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.