Chuyển đến nội dung chính

Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?

132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?
Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?

-Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy đừng nên để cho thân các thầy rơi đi bằng phi pháp, nếu có rơi thì cũng nên để cho rơi bằng pháp". Lời tuyên bố ấy có đúng chăng? Và nghĩa của nó là thế nào?
- Tâu đại vương! Lời tuyên bố ấy chính là của Đức Tôn Sư. Và nghĩa của nó là như sau: rơi đi, té xuống, rơi xuống (pàtana) là câu nói thuộc về pháp ngữ; hàm chỉ cái thân của chúng sanh phải sanh lại, phải tái sanh! Nghĩa là nếu có sanh trở lại thì nên sanh bởi pháp chứ không nên sanh trở lại bằng phi pháp!
- Thế nào là không nên sanh lại bằng phi pháp, và nên sanh lại bằng pháp?
- Tâu, có pháp, bằng pháp nghĩa là có giới; phi pháp, không có pháp nghĩa là không có giới. Nói cách khác, Đức Thế Tôn muốn giáo giới chư tỳ khưu hãy tinh tấn hộ trì giới bổn, thu thúc lục căn, làm cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh - thì các đời sống trong tương lai sẽ được an vui, hạnh phúc; ấy là cách nói: "nên rơi đi bằng pháp". Nếu trái lại, sống mà không hộ trì giới bổn, không thu thúc lục căn; thân, khẩu, ý buông lung, phóng dật thì các kiếp hậu lai sẽ gặt lấy kết quả đau khổ, phiền não. Ấy là cách nói: "đừng rơi đi bằng phi pháp"!
- Giới quan trọng như vậy sao?
- Tâu, quả đúng như vậy! Giới có công năng diệt trừ tất cả mọi đau khổ phiền não của chúng sanh. Rải rác trong kinh, chỗ này chỗ kia, Đức Phật thường ví giới như một loại thuốc có thể diệt trừ tất cả mọi loại độc, nhất là độc phiền não. Giới như một loại thuốc trị bệnh, có công năng đối chứng trị liệu tất cả tâm bệnh phiền não của chúng sanh. Giới ví như một loại nước trong mát, có thể rửa sạch mồ hôi, bụi đất, đồ dơ bẩn dính ở nơi thân, tức là bụi bặm dơ uế của phiền não. Giới ví như ngọc ma-ni có tên gọi là ngọc như ý, có thể làm cho thành tựu tất cả mọi nguyện vọng, mong mỏi của chúng sanh. Giới ví như chiếc thuyền lớn, có thể vượt qua khỏi bốn dòng nước cuồng lũ - tức là sanh, già, đau, chết. Giới ví như chiếc xe lớn có khả năng đi qua được bốn con đường hiểm trở cam go - tức là sanh, già, đau, chết. Giới ví như một trận gió lớn có thể thổi tắt tức khắc ba loại lửa là lửa tham, lửa sân và lửa si. Giới ví như một đám mưa lớn có thể thỏa mãn được cho dân chúng trong mùa hạn hán. Giới ví như một bậc thầy sáng suốt, hiền đức luôn dạy học trò những việc thiện, những điều lành, tốt. Giới ví như một người chỉ đường có đầy đủ lương năng và tâm từ ái, luôn luôn vui vẻ đối với kẻ lạc đường; chỉ cho họ bỏ đường mê về với nẻo sáng, đường tà trở lại với đường chánh.
Tâu đại vương! Công năng của giới là vô lượng, vô hạn, bất khả tư nghì. Không những giới sẽ thành tựu những đức tính cao quý tốt đẹp cho con người, tạo nên y báo, chánh báo mỹ toàn và sang cả; mà còn giúp cho chúng sanh vượt thoát bốn nỗi sợ hãi to lớn của đời người tức là sanh, già, bệnh, chết nữa!
Đấy là những lợi ích của giới, tức là lợi ích của những người "hãy nên rơi đi bằng pháp" đấy, tâu đại vương!
- Thưa đại đức! Đức Đại Bi cấm chế giới luật vì những lợi ích thiết thực và thù thắng như thế, trẫm đã hiểu rồi. Có rơi đi, có chết đi, có sanh lại cũng bằng pháp chứ không phải bằng phi pháp. Cũng có nghĩa là các thầy tỳ khưu hãy hộ trì giới, nâng đỡ giới, đừng để cho giới hư hỏng, tiêu hoại; đúng như lời của Đức Ca-diếp đồng tử (Kumàra Kassapa) đã thuyết: "Các bậc sa-môn, bà-la-môn thực hành giới, có pháp, có hạnh kiểm tốt đẹp hằng sống trong thế gian vì lợi ích cho mình và cho người khác".
- Đại vương đã hiểu rất đúng đắn.
- Nếu như có giới, có pháp, có hạnh kiểm tốt đẹp, lợi ích cho mình và tha nhân như thế; tại sao Đức Thế Tôn lại còn thuyết về "cắt đứt sự rơi đi", nghĩa là cắt đứt sự sanh, già, đau, chết; nghĩa là chấm dứt sự tái sanh, sự trở lại thế gian dù sự trở lại ấy là tốt đẹp, là lợi ích cho mình và người?
- Đức Thế Tôn đã thuyết với pháp tuần tự, thứ lớp. Đầu tiên, ngài dạy chư tỳ khưu đừng cho rơi đi bằng phi pháp, sau đó là nên rơi đi bằng pháp. Rơi đi bằng pháp có lợi ích cho mình và tha nhân như đại vương đã hiểu. Tuy nhiên, cứu cánh của sa môn hạnh không phải dừng lại ở đó, vì "rơi đi bằng pháp" vẫn còn đau khổ, phiền não. Muốn được an vui tuyệt đối thì cần phải "cắt đứt luôn sự rơi đi"; nghĩa là không còn cả sự sanh kia nữa, tâu đại vương!
- Xin đại đức hãy giảng rộng điều ấy.
- Vâng. Còn rơi đi, còn sanh lại, là còn biết bao nhiêu cái khổ mà chúng sanh phải gánh chịu như là một cái gì tất yếu, lắm nghiệt ngả. Đại vương hãy nghe một số khổ kéo theo "Khổ sanh" (Jàtipi dukkhà):
Sự khổ do thân thể suy nhược, già yếu.
Sự khổ do bệnh hoạn, ốm đau.
Sự khổ do thân thể tan rã, hủy diệt, tử vong.
Sự khổ do sầu khổ, thương nhớ.
Sự khổ do khóc than, uất ức, yêu thương, chia lìa v.v...
Sự khổ do trái ý, nghịch lòng v.v...
Ở một chỗ khác, Đức Thế Tôn lại nói đến những cái khổ khác, theo cách khác:
Sự khổ do phải gần gũi, thân cận người mà mình không thích, tức là kẻ mà mình oán thù, kẻ nghịch hoặc người mình ghét (oán tăng hội khổ).
Sự khổ do xa cách, biệt ly người mình yêu thương ví như cha mẹ, vợ chồng, con cái, quyến thuộc (ái biệt ly khổ). Hoặc có sự não hại, hư hại, tai ương, hoạn nạn đến cho những người mình yêu thương cũng phát sanh sự khổ.
Vật sở hữu, của cải, tài sản, vật thực bị hư hao, mất mát... cũng phát sanh khổ.
Ngoài ra, còn rất nhiều sự khổ phát sanh do sợ hãi:
Sợ hãi do giới đã thọ trì bị hư hoại, sợ sẽ tái sanh trong khổ cảnh.
Sợ hãi vi phạm luật vua, phép nước mà bị trọng tội, tù ngục, tử hình.
Sợ hãi kẻ trộm cắp, cướp của, giết người.
Sợ hãi nạn lửa.
Sợ hãi nạn nước lũ phá nát ghe thuyền, nhà cửa ngập lụt, ruộng vườn tiêu hoại hoa màu...
Sợ hãi sóng to, thuyền đắm chìm mất của cải, hàng hóa.
Sợ hãi cá sấu dữ.
Sợ hãi chỗ nước xoáy.
Sợ hãi cá đao, cá mập có răng dài.
Sợ hãi vì lỡ nói lời sái quấy, xằng bậy, không chính đáng, phi pháp.
Sợ hãi chấm dứt mạng sống.
Sợ hãi bốn đường dữ.
Rồi còn những sợ hãi do bị cắt tay chân, bị nhục hình, tật nguyền... thật là vô số kể ở các kiếp sống trả vay, nhân quả trong sáu đường.
Tâu đại vương! Nói tóm lại, không biết bao nhiêu là thống khổ khi còn phải tái sanh trong thế gian này. Ví như dòng chảy từ Hy-mã-lạp sơn của con sông đại Hằng đã cuốn theo mình nó không biết bao nhiêu đất đá, cát sỏi, cành cây, rễ cây, gốc cây, rác rều, gỗ mục, xác chết sinh vật... Cũng vậy, dòng sinh tử ái hà cuồng lưu chảy xiết ấy nó cũng đầy rẫy những nỗi thống khổ không thể đếm được. Chính những thứ sợ hãi lớn và vô lượng quả báo nghiệp mà chúng sanh phải gánh chịu khi còn phải quẩn quanh trong vòng luân hồi, nó tạo ra các sự thống khổ kia!
Tâu đại vương! Còn sanh, già, đau, chết là còn đau khổ, phiền não. Muốn chấm dứt đau khổ, phiền não, để đạt được hạnh phúc siêu thế là đạo quả Niết bàn thì phải cắt đứt sự sanh, diệt tắt sự tái sanh. Đức Thế Tôn dạy cho chư tỳ khưu Tăng, các hàng Thinh Văn vượt qua sanh, già, đau, chết là vì lẽ ấy.
Đại vương đã hiểu rõ tại sao lại "cắt đứt sự rơi" chưa?
- Thưa, rất rõ ạ! Như thế, Đức Thế Tôn đã thuyết về lý "vô sanh" theo cách khác, phải chăng?
- Tâu, vâng!
- Cảm ơn đại đức!
* * *
Bài viết được chúng tôi trích từ cuốn sách "MI TIÊN VẤN ĐÁP"
do Hòa thượng Giới Nghiêm dịch sang tiếng Việt, Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính



Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.