Chuyển đến nội dung chính

Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử của mình?

129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử của mình?
Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử của mình?

- Thưa đại đức! Rất nhiều lần Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Như Lai là bà-la-môn cao quý, xứng đáng cho chư thiên và nhân loại đảnh lễ, xứng đáng để cho kẻ khác xin rửa tay dâng phẩm vật cúng dường; là bậc tối thượng trong tam giới, là bậc chỉ còn kiếp sống cuối cùng, không còn quẩn quanh trở lại trong tam giới nữa; là bậc tôn quý, vô thượng... không ai sánh bằng.". Câu Phật ngôn ấy có chính xác không?
- Tâu, khá chính xác!
- Thế sao ở một chỗ khác, khi khen ngợi tỳ khưu Bàkula, Đức Thế Tôn có tuyên bố như sau: "Trong hàng thinh văn đệ tử của Như Lai, tỳ khưu Bàkula là người thiểu bệnh, có phước báu tuyệt đỉnh, là đệ nhất ưu hạng, là người cao quý không ai sánh bằng...". Câu thuyết ngôn này có chính xác không, thưa đại đức?
- Tâu, cũng rất đúng.
- Và chính xác nữa! Vì Đức Thế Tôn bị bệnh đến bốn lần, còn tỳ khưu Bàkula suốt cả cuộc đời dường như vô bệnh. Như thế có nghĩa là, phước báu của tỳ khưu Bàkula là tối thượng, ưu hạng, là tuyệt đỉnh không ai sánh bằng, kể cả Đức Tôn Sư!
- Sao có thể lý luận như vậy được, đại vương!
- Vậy thì đại đức có thể minh giải điều ấy được chăng?
- Vâng, dễ dàng thôi. Chẳng cần phải giải minh, bần tăng chỉ nói lên sự thật thì đại vương có thể hiểu rõ cách khen ngợi của Đức Thế Tôn. Khi một vị tỳ khưu giỏi, thông suốt một lĩnh vực nào thì Đức Thế Tôn thường khen ngợi vị ấy là tối thượng, là đệ nhất ưu hạng về lĩnh vực ấy. Chẳng hạn, Đức Thế Tôn khen ngợi đại đức Upàlì là ưu hạng đệ nhất về tạng Luật, đại đức Mahà Kassapa đặc biệt ưư hạng về Vi-diệu tạng, đại đức Ànanda thì tối thắng, ưu hạng đệ nhất về tạng Kinh, v.v... Từ đó, ta có thể hiểu rõ, tại sao có vị Đức Thế Tôn khen ngơi là đệ nhất về thuyết pháp, có vị được khen là đệ nhất về thiền định, đệ nhất về tinh tấn, đệ nhất về khổ hạnh, đệ nhất về hạnh độc cư, thanh tịnh v.v... Nói tóm lại, Đức Thế Tôn khen ngợi, tán dương các đệ tử của Ngài là cao quý, cao thượng, là ưu hạng, là đệ nhất... không có nghĩa là họ cao quý, cao thượng, tối thắng hơn cả Đức Tôn Sư!
- Như thế có nghĩa là, Đức Thế Tôn chỉ ca ngợi phước báu của tỳ khưu Bàkula về phương diện "vô bệnh" mà thôi?
- Vâng, chỉ riêng có lĩnh vực ấy, bởi chẳng ai có thể so sánh với Đức Tôn Sư ở nhiều phương diện khác. Họ chỉ là đệ nhất ở trong hàng thinh văn đệ tử của Ngài! Làm thế nào mà trong hàng ngũ của chư thiên, loài người, phạm thiên, sa-môn, bà-la-môn... lại có kẻ cao quý, ưu hạng, tối thượng bằng một vị Chánh Đẳng Giác? Ai mà có thể so sánh về giới, định, tuệ, giải thóat và giải thóat tri kiến với Đức Tôn Sư? Liệu ai có thể có mười sức mạnh tuệ giác, mười tám tuệ dũng mãnh vượt qua sinh tử ái hà như Bậc Vô Thượng? Quả thật, chẳng ai có thể so sánh được với Đức Đại Giác.
- Đại đức cho nghe ví dụ được chăng?
- Vâng. Ví như trong quốc độ của đại vương, vốn có nhiều giai cấp, nghề nghiệp, dòng họ, thiên tư, hiểu biết, trí tài, khả năng khác nhau... Có người là đệ nhất về vàng bạc châu báu, tài sản. Có người là đệ nhất về đất đai, ruộng vườn. Có người là đệ nhất về kiến thức, hiểu biết... Đệ nhất về các học nghệ... Đệ nhất về tinh thông văn học, cú pháp, văn phạm... Đệ nhất về bùa chú, ngải nghệ... Đệ nhất về chế tạo cung tên, khí giới v.v... Ở mỗi lĩnh vực, trí tài nào đó, họ là đệ nhất; tuy thế, họ đều là thần dân của đại vương, phục vụ cho đại vương, phải tôn trọng, cúi đầu, thuần phục đại vương; chẳng ai có thể so sánh bằng đại vương, bởi đại vương mới chính là người ở trên hết, tối thượng tôn, cao quý nhất ở trong quốc độ của đại vương. Đức Thế Tôn so với hội chúng của Ngài, với các hàng thinh văn đệ tử cũng y như thế. Đừng nói chỉ một phước báu của Bàkula, mà hàng trăm phước báu của Bàkula... cho chí hai vị thượng thủ, đại đệ tử của Ngài, dẫu là những bậc cao quý vô song... cũng chẳng thể đem ra so sánh với Đức Thế Tôn được!
Đức vua Mi-lan-đà im lặng giây lâu rồi hỏi:
- Trẫm đã hiểu rồi. Nhưng về phương diện vô bệnh thì phước báu của tỳ khưu Bàkula vẫn là đệ nhất chứ? Không rõ do nhân duyên quá khứ như thế nào mà tỳ khưu Bàkula được hưởng quả thù thắng như thế?
- Tâu đại vương, quả là có nhân duyên thù thắng nên mới hưởng được quả thù thắng. Số là vào thời xưa, tỳ khưu Bàkula đã từng làm thầy thuốc, đã cúng dường y dược đến cho Đức Phật Anomadassì, Đức Phật Vippassì và luôn cả tỳ khưu Tăng sáu ngàn tám ức vị. Do duyên lành ấy nên đã rất nhiều đời, tỳ khưu Bàkula chẳng hề có bệnh tật hay đau ốm gì cả. Bởi vậy, Đức Thế Tôn mới khen ngợi, tán dương tỳ khưu Bàkula là cao quý, là ưu hạng không ai sánh bằng! Đại vương đã hiểu tự sự, đầu đuôi gốc ngọn rồi chứ?
- Vâng, vâng! Trẫm rất hoan hỷ, hoan hỷ đệ nhất!
* * *
Bài viết được chúng tôi trích từ cuốn sách "MI TIÊN VẤN ĐÁP"
do Hòa thượng Giới Nghiêm dịch sang tiếng Việt, Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính



Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.