Chuyển đến nội dung chính

Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 104. Oai lực của Đức Phật thua ma vương?

104. Oai lực của Đức Phật thua ma vương?
Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 104. Oai lực của Đức Phật thua ma vương?

- Bạch đại đức! Đức Đại Giác đã tròn đủ các công hạnh ba-la-mật, nhờ trong vô lượng kiếp ngài đã tích lũy biết bao nhiêu công đức và phước báu; nên kiếp cuối cùng này chắc ngài cũng viên mãn tài lộc, viên mãn lợi danh, viên mãn về tứ sự như y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men... phải vậy không đại đức?
- Tâu vâng!
- Chuyện khác thì không nói, chỉ nói đến vật thực. Nếu đại đức bảo rằng phước báu về vật thực của Đức Thế Tôn là rất lớn, rất viên mãn, luôn luôn dư thừa, không bao giờ thiếu thốn; thế tại sao một lần nọ, khi ngài đi trì bình tại nhà người bà-la- môn Panca Sàla, ngài không nhận được vật thực, đành phải ôm bát không mà đi ra? Đại đức nghĩ sao về trường hợp ấy?
- Rồi đại vương sẽ sáng tỏ thôi. Đức Thế Tôn chẳng bao giờ thiếu thốn vật thực đâu. Sở dĩ tại nhà người bà-la-môn Panca Sàla, Đức Phật phải ôm bát không trở ra là do ma vương quậy phá. Ma vương đã dùng thần lực che mắt người bà-la-môn đấy, tâu đại vương!
- Thưa, chuyện ấy mà có thì phát sanh hoài nghi khác nữa. Hoài nghi rằng, công năng vô lượng phước báu ba-la-mật của Đức Thế Tôn ở đâu - mà khi ấy nó không trổ quả?
- Chẳng phải thế đâu, đại vương! Lúc ấy vì ma vương có tâm ác rất mãnh liệt đã tìm cách che mắt ông bà-la-môn không cho thấy Đức Thế Tôn.
- Nếu thế thì phát sanh nghi vấn to lớn hơn nữa. Rằng là điều ác đã thắng điều thiện? Rằng là tâm ác mãnh liệt của ma vương đã chiến thắng sự toàn thiện của Đức Thế Tôn? Rằng là sức mạnh, uy đức của Đức Thế Tôn do viên mãn ba-la-mật vẫn không bằng sức mạnh, ác đức của ma vương? Rồi người ta lại còn mỉa mai, biếm nhẽ rằng: Ồ! Té ra ngọn cây mà nặng hơn gốc cây? Tà đạo mà thắng chánh đạo? Người xấu xa, độc ác, người hung dữ, tham sân vẫn thường là kẻ có nhiều sức mạnh hơn người hiền thiện, người tốt, người khiêm nhu và đức hạnh! Chẳng lẽ nào lại có cái sự thật đau lòng trên thế gian này như thế, thưa đại đức?
- Chánh bao giờ cũng thắng tà. Gốc bao giờ cũng nặng hơn ngọn, thiện bao giờ cũng thắng ác. Đại vương chẳng cần phải bi quan như thế. Sức mạnh dẫu là ác tâm của ma vương cũng chẳng bao giờ có thể thắng nổi Đức Thế Tôn toàn thiện đâu! Đại vương phải hiểu rằng, lúc ấy ma vương với ác tâm mãnh liệt đã tìm cách che mờ mắt của người bà-la-môn không cho thấy Đức Thế Tôn. Tâm ác mãnh liệt là khác mà che mờ mắt là khác, tâu đại vương!
- Xin đại đức giảng cho nghe điều ấy?
- Đại vương! Điều này đại vương có thể hiểu được qua một ví dụ. Ví như cung điện của đại vương có nhiều cổng thành ra vào, mỗi cổng thành như vậy thường có một số quân lính túc trực cùng với một viên võ tướng chỉ huy canh gác. Vì đại vương thương yêu thần dân như con nên hằng ngày có một số người hay mang đến mật ong, sáp ong, cơm nước thượng vị vào dâng cho đại vương vì lòng tôn kính và sự ngưỡng mộ. Có một viên võ tướng chợt sanh tâm ganh ti với đại vương, khi người ta mang vật phẩm đến, viên võ quan ấy chặn lại, xét hỏi rắc rối không cho vào, làm cho đại vương không nhận được vật phẩm ấy. Đại vương nghĩ thế nào? Đại vương không nhận được vật phẩm là bởi sức mạnh, uy lực của đại vương không bằng sức mạnh và uy lực của người gác cửa hay sao?
- Tên gác cửa ấy nếu trẫm bảo chết, nó sẽ chết - thì làm sao lại có sức mạnh, uy lực hơn trẫm được!
- Đúng thế! Vì tâm ganh tỵ của tên võ quan quá lớn nên sinh ra việc ngăn người ta vào, chứ sức mạnh uy lực làm sao bằng được đại vương? Cũng vậy, vì ma vương tâm ác quá mạnh, che mờ mắt người bà-la-môn, chứ sức mạnh, uy lực của ma vương làm sao bằng Đức Thế Tôn được! Đại vương nên hiểu như vậy.
- Vâng, vậy là trẫm hết nghi rồi.
Đại đức Na-tiên chợt hỏi:
- Thế hằng ngày đại vương cũng thường nhận được vật phẩm như vậy hay sao? Có khi nào những tên gác cổng ngăn chặn tất cả cổng thành làm cho đại vương mất phần lợi lộc?
- Làm sao lại mất được, đại đức. Biết bao nhiêu là cổng, biết bao nhiêu người vào! Lại nữa, tên võ quan kia chỉ trực cổng, ngày hôm sau đã đổi viên võ quan khác. Vật phẩm của trẫm không bao giờ thiếu, thưa đại đức quý trọng!
- Hay lắm! Đức Thế Tôn cũng y như thế. Trưa hôm ấy tuy Đức Thế Tôn ôm bát không từ nhà người bà-la-môn đi ra, do từ phước báu quá khứ của ngài làm cho chư thiên nóng ruột. Khi quán xét biết sự việc ấy, quá nhiều chư thiên đã hối hả làm vô số món ăn từ cõi trời, xuống dâng cúng cho Đức Thế Tôn. Thế đó, sức mạnh của ma vương không thể hơn sức mạnh của Đức Thế Tôn, tà không thể hơn chánh, ngọn không thể nặng hơn gốc, ác không thể thắng thiện. Và công đức, phước báu của Đức Thế Tôn bao giờ cũng dư thừa, viên mãn - tâu đại vương!
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Thôi, đồng ý là sức mạnh, uy lực ma vương không bằng được Đức Phật, đồng ý là phước báu của Đức Toàn tri lúc nào cũng viên mãn! Nhưng trẫm vẫn còn thấy cái gì đó ẩn đằng sau câu chuyện này. Là dù sao, khi ma vương che mắt người bà-la-môn Panca Sàla, làm cho Đức Phật ôm bát không đi ra, là ma vương đã đạt được tâm nguyện rồi, đã vừa ý muốn của mình rồi. Chẳng lẽ nào Đức Chánh Đẳng Giác với bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp ba-la-mật, bao nhiêu giác, minh, tuệ, thần thông mà không nâng đỡ được mình sao, để cho ma vương đắc ý mỉm cười, có phải thế không? Để cho ma vương đem đến sự tai hại cho Đức Thế Tôn, dù là chút ít? Đại đức có thể nào phá nghi điều ấy cho trẫm không?
- Có thể được, đại vương hãy chú tâm nghe. Về vấn đề bố thí, cúng dường vật thực của thí chủ đến cho người thọ thí, có thể có bốn sự tai hại ngăn trở làm cho sự cúng dường không thành tựu:
Thứ nhất, tai hại khi thí chủ chưa thấy người thọ thí.
Tiếp đến, tai hại khi thí chủ đã sẵn có chủ tâm làm vật thực dâng cúng.
Sau nữa, tai hại khi thí chủ đã sửa soạn vật thực xong rồi.
Cuối cùng, tai hại khi thí chủ dâng cúng vật thực rồi - và người thọ thí đang thọ dụng.
Tâu đại vương! Trường hợp ma vương ngăn trở che mắt người bà-la-môn, thuộc loại tai hại thứ nhất. Đấy là vì ông bà-la-môn không thấy Đức Thế Tôn, người đến thọ thí tại nhà mình. Đấy là sự tai hại bình thường, vì ông bà-la-môn chưa thấy Phật nên chưa khởi tâm gì cả. Ma vương chỉ có khả năng đem đến sự tai hại ngăn trở loại thứ nhất này mà thôi!
- Thưa, các loại ngăn trở sau là thế nào ạ?
- Thưa, loại tai hại thứ hai là khi thí chủ rắp tâm, chủ tâm sửa soạn vật thực để dâng cúng, thì có người đến với ác tâm phá hoại, tìm cách ngăn cản đi. Ví dụ, người kia dùng lời khôn khéo nói sao cho gia chủ thối thất thiện tâm, làm cho gia chủ chán nản, mệt mỏi, làm cho gia chủ không cảm thấy hứng thú trong việc cúng dường, hoặc có thể rủ gia chủ đi chơi chỗ này chỗ kia hấp dẫn, vui vẻ hơn v.v...
- Vâng, trẫm đã hiểu, còn loại tai hại thứ ba là thế nào?
- Thưa, mặc dầu vật thực đã sửa soạn xong, nhưng người thọ thí chưa đến, kẻ khởi ác tâm phá hoại bèn lân la bên cạnh thí chủ tìm cách nói sao cho gia chủ phân vân, hoài nghi. Ví dụ, cúng dường có phước báu gì đâu, thà để cho chồng con cháu chắt thọ dụng tốt hơn. Hoặc, người thọ thí ấy có tu hành gì đâu, ông ấy là một người xấu, không có đức hạnh. Hoặc, cúng dường đệ tử ông Cù đàm thì các giáo phái khác người ta ghét, người ta sẽ thù hằn, đố kỵ.v.v... Sự lập tâm của người ngăn trở là làm cho gia chủ phân vân, lưỡng lự, hoài nghi... để gia chủ bỏ hẳn sự cúng dường ấy đi. Đây là điều tai hại thứ ba, tâu đại vương. Còn điều tai hại thứ tư, là khi đang thọ thực, kẻ ác tâm đến, tìm cách ngăn trở bằng cách nói với người thọ thực rằng: Thưa ngài, ngài dùng vật thực này không thanh tịnh do gia chủ có ác tâm với ngài. Cơm bánh ngài dùng là do gạo dơ, nước dơ. Những gia vị ngài dùng có tẩm độc tinh vi, lâu ngày mới phát tác, coi chừng ngài sẽ thọ bệnh, sau một năm nữa sẽ vỡ cửu khiếu ra mà chết.v.v...
Tâu đại vương! Ma vương chỉ làm loại tai hại thứ nhất đến Đức Thế Tôn, còn ba loại tai hại sau; bần tăng không thấy trong tam giới, trời và người, ma vương, phạm thiên, sa môn hoặc bà-la-môn nào có khả năng làm ba loại tai hại ấy đến Đức Phật. Kẻ nào mà ngu si làm ba loại tai hại ấy đến ngài - thì cái đầu của người ấy sẽ bể tan làm bảy mảnh, tâu đại vương!
Lại nữa, một Đức Chánh Đẳng Giác thường có bốn điều bất khả xâm phạm; không ai với uy lực nào có thể đem đến tai hại hoặc phá hoại được, ấy là:
Thứ nhất, bất cứ lợi lộc gì, phẩm vật gì, tứ sự gì mà thí chủ đã khởi tâm hoặc đã sửa soạn cúng dường đến Đức Phật - thì sự cúng dường ấy ắt hẳn thành tựu, không ai với uy lực nào có thể phá hoại được.
Thứ hai, Đức Thế Tôn có hào quang sáu màu thường tỏa sáng xung quanh, bán kính chừng một sải tay - chẳng có ai với uy lực nào có thể làm cho lu mờ hoặc phá hỏng hào quang ấy.
Thứ ba, tuệ giác của Đức Phật rỡ rỡ quang minh, tịch nhiên, viên chiếu, xuyên chiếu, bao trùm, chẳng ai có khả năng tung bóng tối vô minh xâm phạm được.
Thứ tư, sanh mạng của Đức Thế Tôn, chẳng có uy lực ma quân nào động đến được.
Tâu đại vương! Nếu đại vương thông hội thêm bốn điều bất khả xâm phạm ấy thì đại vương sẽ không bao giờ dám đem sức mạnh và uy lực của ma vương để so sánh với uy lực và sức mạnh của Đức Thế Tôn, phải vậy chăng? Việc ma vương che mắt người bà-la-môn là việc làm ẩn khuất, dấu diếm, chứ ma vương nào dám trực diện với Đức Thế Tôn? Việc làm của ma vương chẳng khác gì người đàn bà ngoại tình vụng trộm, hành động lén lút, dấu diếm đức lang quân của mình. Nếu ông chồng mà bắt được vợ mình làm việc vụng trộm ấy, dẫn đến đại vương thì đại vương xử trị ra sao?
- Làng xã thôn ấp người ta cũng trị được, nói đến luật nước tối cao làm gì. Người ta thường hành hạ, đánh đập, gọt tóc, bôi tro vào mặt, bêu rếu giữa xóm làng rồi sau đó cho làm kẻ gia nô, nô lệ!
- Ma vương hành động lén lút cũng dường như thế, nếu mọi người biết mọi người sẽ khinh bỉ. Còn riêng Đức Thế Tôn, dù ma vương có tâm xấu với ngài, có lẽ tâm ngài vẫn là tâm giải thoát như hư không, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức đã rọi đèn sáng vào khắp các hang hóc tối tăm của câu chuyện, trẫm không hề còn một mảy may nghi! Chỉ có trí tuệ quảng bác, uyên áo, sắc bén của ngài mới giải nạn cho những vấn nghi mà thế gian này không ai làm nổi. Một lần nữa tri ân đại đức vậy.
Đức vua Mi-lan-đà hân hoan quá bèn quỳ sát đất đảnh lễ rồi tán thán:
- Trẫm xin tôn kính đảnh lễ ngài, đại đức Na-tiên cao quý và trí tuệ vô song!
* * *
Bài viết được chúng tôi trích từ cuốn sách "MI TIÊN VẤN ĐÁP"
do Hòa thượng Giới Nghiêm dịch sang tiếng Việt, Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính



Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.