Chuyển đến nội dung chính

Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng?

106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng?
Mi Tiên Vấn Ðáp - II. NỘI DUNG - 106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng?

- Thưa đại đức! "Người đắc pháp xuất thế gian là vô cùng cao quý, xứng đáng để cho chư thiên và nhân loại đảnh lễ, cúng dường". Lời của Đức Đại Bi thuyết cho Setthà nghe như thế có đúng chăng?
- Thưa đúng.
- Thế tại sao sau đó, Đức Thế Tôn còn thuyết rằng: "Những tại gia cư sĩ đắc quả thánh Tu-đà-huờn rồi, họ chỉ còn nghiệp rất nhẹ, không còn đọa vào bốn đường ác, đức tin Tam Bảo đã vững chắc, là người đã thấy rõ pháp; tuy nhiên, những tại gia cư sĩ đắc quả Thánh Tu-đà-huờn ấy, khi gặp chư tỳ khưu Tăng bất kể thánh hay phàm, đều phải đứng dậy, mời ngồi, lễ bái và cúng dường". Lời thuyết này cũng đúng chăng, thưa đại đức?
- Vâng, cũng rất đúng!
- Vậy thì lời thuyết sau phủ định lời thuyết trước? Lời thuyết sau bắt các vị Thánh đã đắc quả xuất thế gian phải lễ bái, cúng dường những vị phàm Tăng thế gian sao? Nghe có lọt tai không chứ?
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Rất lọt tai là khác, nếu như đại vương biết rõ những pháp cao thượng mà những vị phàm Tăng kia đang thực hành, đang y chỉ, đang bảo lưu, gìn giữ, tâu đại vương!
- Xin đại đức hãy lật đứng dậy những cái gì khuất lấp ở trong cái đầu óc u mê của trẫm!
- Đại vương đừng quá tự khiêm, bần tăng sẽ nói đây! Là những vị phàm Tăng ấy, tâu đại vương, họ hằng có hai mươi pháp hành cao thượng của sa môn. Ngoài ra, còn hai pháp cao thượng nữa thuộc về phẩm mạo, tăng tướng nhằm hỗ trợ, nâng đỡ cho hai mươi pháp cao thượng nêu trên. Như vậy, tất cả có hai mươi hai pháp mà họ đang y chỉ, thực hành, đáng để cho các vị Thánh cư sĩ Tu-đà-huờn ngưỡng mộ, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, tâu đại vương! Hai mươi pháp ấy như sau:
Một là, tâm bi mẫn và sự chơn thật;
Hai là, hỷ hoan trong đời sống thanh cao;
Ba là, đang thực hành pháp;
Bốn là, tứ vô lượng tâm;
Năm là, thu thúc lục căn;
Thứ sáu, thu thúc trong giới bổn pàtimokkha;
Thứ bảy, nhẫn nhục;
Thứ tám, vắng lặng;
Thứ chín, thỏa thích trong chánh pháp;
Thứ mười, thực hành pháp cao thượng;
Mười một, thường thích ở ẩn;
Mười hai, hổ thẹn tội lỗi;
Mười ba, ghê sợ tội lỗi;
Mười bốn, tinh tấn;
Mười lăm, không giải đãi (dễ duôi);
Mười sáu, biết học hỏi giáo pháp;
Mười bảy, biết giảng giải giáo pháp;
Mười tám, thỏa thích trong giới đức;
Mười chín, không tham muốn, không chất chứa, không luyến tiếc;
Hai mươi là, đầy đủ tất cả các điều học.
Và hai pháp cao thượng thuộc phẩm mạo, tăng tướng là:
Thứ nhất, thọ dụng y cà-sa;
Thứ hai, đầu cạo trọc.
Đại vương thấy thế nào, hai mươi hai pháp ấy có cao thượng chăng?
- Thưa, đồng ý là cao thượng, nhưng dẫu sao cũng mới chỉ là pháp cao thượng chứ không phải là người cao thượng!
- Nhưng mà chư tỳ khưu Tăng có vị đã chứng, đang chứng, và sẽ chứng, tâu đại vương!
- Xin đại đức tuần tự giảng cho nghe. Thật là đáng khâm phục trí tuệ biện tài của đại đức nếu như đại đức giảng trôi nạn vấn của trẫm!
- Vâng, đại vương nghĩ thế nào, nếu có vị tỳ khưu thọ trì đầy đủ hai mươi hai pháp ấy; thực hành không cho hư hỏng hai mươi hai pháp ấy, thực hành trọn vẹn hai mươi hai pháp ấy; có thể tiến từ bậc hữu học lên bậc vô học, đắc quả A-la-hán thì vị cư sĩ Thánh quả Tu-đà-huờn kia nên đứng dậy mời chào, lễ bái, cúng dường các vị tỳ khưu ấy không?
- Rất xứng đáng!
- Tại sao lại xứng đáng?
- Vì dù sao Thánh cư sĩ Tu-đá-huờn đâu có được hai mươi hai pháp ấy? Một vì tỳ khưu đắc Tu-đá-huờn, quả vị tuy bằng người cư sĩ nhưng sẽ cao thượng hơn người cư sĩ vì vị tỳ kheo còn có hai mươi hai pháp quý báu ở bên mình, đáng được trọng nể hơn vậy? Nhưng nếu vị tỳ khưu thọ trì hai mươi hai pháp, có thực hành nhưng chưa thành tựu đầy đủ hai mươi hai pháp ấy; chưa đạt địa vị hữu học hoặc vô học thì làm sao vị Thánh cư sĩ lại lễ bái, cúng dường được, đại đức?
- Thưa, vẫn rất xứng đáng lễ bái, cúng dường - vì vị Thánh cư sĩ sẽ nghĩ rằng: "Dầu sao, các ngài tỳ khưu cũng là môn đệ bậc cao của Đức Phật, đã thọ trì giới bổn thanh tịnh, đã từng thuyết giới bổn thanh tịnh. Các ngài đều có khả năng làm những việc mà những cư sĩ bậc Thánh không thể làm được, là có khả năng cho những người xuất gia thọ sa đi giới và thọ cụ túc giới. Ngoài ra có vị tỳ khưu, dẫu là phàm Tăng, nhưng, chính họ là người kế thừa, bảo lưu, giữ gìn hạt giống bồ-đề làm cho Phật giáo được hưng thịnh lâu dài". Tâu đại vương! Nếu vị Thánh cư sĩ suy nghĩ như thế ở trong tâm, vị ấy có đứng dậy, mời ngồi, lễ bái, rót nước, dâng vật thực đến cho chư tỳ khưu phàm Tăng chăng?
- Thưa, suy nghĩ ấy rất chánh đáng, rất thuyết phục, xứng đáng đảnh lễ, cúng dường lắm! Nhưng, ngoài ra, các vị tỳ khưu có thọ trì hai mươi hai pháp ấy, nhưng khuyết tật hoặc hư hỏng hai mươi hai pháp ấy - thì chắc chắn không xứng đáng rồi!
- Vẫn rất xứng đáng, tâu đại vương! Vì bậc Thánh cư sĩ sẽ suy nghĩ rằng: "Họ hư hỏng, khuyết tật nhưng họ vẫn đang trong tăng tướng và phẩm mạo cao thượng; họ đang đi trên con đường phạm hạnh, họ ăn một bữa, họ thiểu dục, tri túc; họ thường sống nơi tịch mịch, xa chỗ huyên náo ồn ào, xa chỗ ngũ dục thấp hèn!... Còn ta là gì? Ta là cư sĩ áo trắng, dù đắc quả Tu-đà-huờn, nhưng ta vẫn có gia đình với vợ và con, bạc tiền, của cải, danh vọng, địa vị, nghề nghiệp nuôi sống. Ta không cắt móng tay, không cạo râu tóc, vẫn trang điểm, vẫn thoa vật thơm, y phục lành tốt, thọ hưởng ngũ dục, ăn ngon, mặc ấm, giường cao, nhà rộng v.v... Chỉ nguyên nhân ấy thôi, ta đã phải lễ bái, cúng dường đến các ngài rồi. Huống hồ các ngài, chư phàm Tăng ấy còn có khả năng dạy giáo pháp, truyền giới luật cho người tại gia, người xuất gia? Đấy là những việc mà không một Thánh cư sĩ siêu phàm nào làm được". Đại vương! nếu khi mà vị Thánh cư sĩ suy nghĩ như thế - thì vị ấy có đứng dậy tiếp rước, mời ngồi với hai tay chấp lại thành kính không, hở đại vương?
- Ồ! nếu mà suy nghĩ vậy thì quả thật trẫm đã thua xa trí tuệ thấu suốt ngọn ngành của đại đức rồi!
- Không dám!
- Chắc chắn là vậy! Vì sự gợi ý sáng suốt của đại đức mà trẫm có được một ví dụ như sau: "Trẫm có một vị hoàng tử, trẫm cho đi học văn chương, triết học... nơi một thầy bà-la-môn, là một bậc giáo thọ lớn. Nhờ sự giáo huấn của thầy bà-la-môn lỗi lạc, con trẫm được nên người, thành tài. Nếu sau này mà con trẫm có lên vương, thì trẫm cũng phải hằng nhắc nhở con trẫm rằng: Con nên hằng đến thăm thầy, kính trọng, đảnh lễ thầy, vì nhờ thầy mà bây giờ con đã trở nên một vị vua xứng đáng". Thưa đại đức! Cũng vậy là vị Thánh cư sĩ kia, mặc dầu ở địa vị cao hơn, quý báu hơn; nhưng dù sao cũng nhờ các vị tỳ khưu phàm Tăng, là bậc thầy dạy đạo cho mình, cho mình thọ trì tam quy, ngũ giới, dạy pháp học, pháp hành... để mình có cơ hội tiến tu và nhập vào dòng Thánh ngày hôm nay! Chỉ ngay cái sự tri ân ấy thôi cũng xứng đáng lễ bái, cúng dường rồi, phải vậy không đại đức?
- Rất là chính xác! Đại vương có thể suy diễn cả những điều mà bần tăng đang định nói ra, chứng tỏ đại vương có thể đi đến một sự nhất trí về kết luận của bần tăng như sau: "Không kể phàm, không kể thánh - chỉ ngay cái phẩm vị tỳ khưu - đã là phẩm vị cao thượng, xứng đáng cho trời và người lễ bái, tôn trọng, cúng dường".
- Rất đồng ý!
- Cho nên, vị Tu-đà-huờn cư sĩ lễ bái, cúng dường phẩm vị tỳ khưu là phải lẽ. Cho chí một vị cư sĩ A-la-hán, muốn bảo toàn phẩm hạnh thanh cao của mình, đắc quả A-la-hán trong ngày nào [*] thì phải xuất gia phẩm vị tỳ khưu trong ngày ấy. Nếu quá một ngày không gặp đủ số Tăng hội, thì vị cư sĩ A-la-hán ấy đành phải Niết bàn! Cho hay, phẩm vị tỳ khưu cao thượng, quý báu dường ấy mà ít người hiểu cho trọn vẹn, thưa đại vương!
[*] Đôi chỗ nói là bảy ngày.
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu hóm hỉnh:
- Gặp được bậc thiện trí thức thông tuệ như đại đức đây, hôm nay, đã làm cho tâm tư trẫm mát mẻ, rỗng không nghi vấn - dẫu trẫm là vị đế vương sang cả, quyền uy vô tận; đại đức chỉ là một công dân thôi, trẫm cũng phải cung kính, đảnh lễ như thường!
- Đại vương quả là bậc thiện trí!
- Không dám!
* * *
Bài viết được chúng tôi trích từ cuốn sách "MI TIÊN VẤN ĐÁP"
do Hòa thượng Giới Nghiêm dịch sang tiếng Việt, Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính



Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.