Chuyển đến nội dung chính

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC - Phần IX - NĂM GIỚI HẠNH VỀ ĐẠO ĐỨC (PANCA - SILA)

Phần IX
NĂM GIỚI HẠNH VỀ ĐẠO ĐỨC
(PANCA - SILA)

Phần IX - NĂM GIỚI HẠNH VỀ ĐẠO ĐỨC (PANCA - SILA) - GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC - Đạo Phật Nguyên Thủy


NỘI DUNG

1. Năm Điều Xấu và Năm Đức Hạnh
2. Tự Trách Nhiệm Trong Công Việc Tu Dưỡng Đạo Đức
3. Giới Hạnh Là Không Thể Thiếu Để Rèn Luyện Đạo Đức
4. Đặt Mình Vào Vị Trí Của Người Khác Theo Quan Điểm Của Giáo Pháp.
5. Giới Hạnh Thứ Nhất: Không Sát Sinh
6. Giới Hạnh Thứ Hai: Không Trộm Cắp
7. Giới Hạnh Thứ Ba: Không Tà Dâm
8. Giới Hạnh Thứ Tư: Không Nói Dối
9. Giới Hạnh Thứ Năm: Không Uống Rượu, Không Dùng Chất Độc Hại
10. “Ích Lợi Của Việc Uống Rượu Bia Chừng Mực”: Sự Thật Hay Nguy Hiểm?
11. Những Yếu Tố Hỗ Trợ Việc Tuân Giữ Giới Hạnh
12. Hệ Quả Của Việc Vi Phạm và Tuân Giữ Giới Hạnh
13. Sách và Tài Liệu Tham Khảo



I
Năm Điều Xấu và Năm Đức Hạnh



Trong rất nhiều kinh (suttas) dành để nói về vấn đề tu tập cho những Phật Tử tại gia hay cư sĩ, như trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara iii, 203), Đức Phật đã khuyên dạy nhiều lần nên tránh năm điều xấu, đó là những hiểm họa và kẻ thù của bản thân mọi người, sẽ là đường dẫn đến Địa Ngục đầy thảm khóc và khổ đau. Năm điều đó là gì?

(1) Giết mạng sống hay sát sinh

(2) Ăn trộm, ăn cắp

(3) Tà dâm

(4) Nói dối

(5) Uống rượu hay dùng những chất độc hại.

- Những người làm những điều xấu ác này luôn sống một cuộc sống tại gia không còn tự tin hay đầy lo sợ.

- Những người làm những điều xấu ác này gieo sân hận hay thù hận trong cuộc đời này hay gieo sân hận và thù hận cho kiếp sống sau này, sẽ luôn cảm thấy trong tâm đau đớn và sầu khổ.

- Những người làm năm điều xấu này, bị xếp vào loại “xấu xa” hay “phóng dật” và sẽ tái sinh vào địa ngục.

Cũng trong những Kinh này, Đức Phật đã giảng dạy về những lợi lạc và hạnh phúc khi làm những điều đức hạnh, hay năm điều đức hạnh, mà chúng ta thường gọi là năm giới hạnh hay Năm giới (ngũ giới), đó là:

(1) Kiêng cữ hay không sát sinh

(2) Kiêng cữ hay không ăn cắp và ăn trộm

(3) Kiêng cữ hay không tà dâm

(4) Kiêng cữ hay không nói dối

(5) Kiêng cữ hay không uống rượu, không dùng những chất độc hại

- Những người giữ được năm điều đức hạnh này thì sống một cuộc đời tại gia đầy tự tin, không lo sợ.

- Những người giữ được năm điều đức hạnh này thì không gieo sân hận và thù hận trong cuộc đời này và kiếp sống mai sau; và cũng không cảm thấy tâm đau đớn hay sầu khổ.

- Những người giữ được năm điều đức hạnh này được xếp vào loại người “đức hạnh” và sẽ tái sinh vào những cõi phúc lành.

Năm Đức Hạnh hay Năm Giới Hạnh (Panca-sila) tạo nên nền tảng đạo đức vô cùng cơ bản, thiết thực cho đời sống của những Phật Tử tại gia, và cho bất cứ ai muốn sống một cuộc đời đàng hoàng, chân chính và hạnh phúc. 

Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Kệ 183 đã tóm tắt những lời Phật đã dạy thật là đơn giản, mộc mạc nhưng cũng đầy đủ để mọi người theo đó mà giữ gìn được những giới hạnh:

Không làm những điều ác
Hãy làm những điều thiện
Giữ tâm luôn trong sạch
Đó là lời Phật dạy.

Như vậy để học hỏi, tu tập tránh những điều xấu ác thông qua việc giữ gìn Năm Giới, một người nên bắt đầu kiểm tra lại bản thân mình, những ô nhiễm, những suy nghĩ, hành động xấu của mình và dần dần tránh bỏ những điều không tốt thông qua những hành động do bản thân làm ra và những lời nói do miệng nói ra và những suy nghĩ do tâm làm khởi sinh.

* “Năm Giới” hay được gọi là “Ngũ Giới”, nhưng chúng ta thống nhất gọi ở đây là ‘Năm Giới’, vì năm giới cũng không có gì khó hiểu bằng tiếng Việt, nên chúng ta không cần mượn tiếng Hán Việt như những trường hợp cần thiết khác (ND).



II
Tự Chịu Trách Nhiệm
Trong Việc Tu Dưỡng Đạo Đức



Năm Giới đã quy định và tạo điều kiện thật sự để Phật Tử tại gia và những người hướng thiện thật sự tu tâm về Đạo Đức. Đó là những giới hạnh, những giới luật căn bản, tối thiểu nhất trong cuộc đời làm người. Thường Năm Giới này được những Phật Tử chấp nhận và tuyên thệ sẽ gìn giữ tại Lễ Quy Y Tam Bảo trước mặt một vị thánh tăng, một sư thầy; nhưng thật sự nếu không có một vị thầy, một Phật Tử cũng có thể tự tâm nguyện nhận Năm Giới làm những giới hạnh mực thước để tuân theo trong cuộc sống của mình.

Thông thường, những Phật Tử kính đạo và gương mẫu cũng tụng đọc về Năm Giới hàng ngày, để luôn luôn ghi nhớ về những giới hạnh đạo đức luôn luôn giữ gìn, nhất là những suy nghĩ và việc làm mà tâm có thể vi phạm. Vì vậy, cần phải luôn tụng đọc và nhắc nhở mình hằng ngày. Thường cách tụng đọc Năm Giới bằng cách đọc ra hay đọc từ trong tâm của mình như sau:

1. Panatipata veramani-sikkhapadam samadiyami.

Đối với việc sát sanh, con nguyện theo Giới Hạnh và kiêng cữ.

2. Adinnadana veramani-sikkhapadam samadiyami.

Đối với việc trộm cắp, con nguyện theo Giới Hạnh và kiêng cữ.

3. Kamesu micchacara veramani-sikkhapadam samadiyami.

Đối với việc tà dâm, con nguyện theo Giới Hạnh và kiêng cữ.

4. Musavada veramani-sikkhapadam samadiyami.

Đối với việc nói dối, con nguyện theo Giới Hạnh và kiêng cữ.

5. Sura meraya majja pamadatthana veramani-sikkhapadam samadiyami.

Đối với việc dùng những chất độc hại, con nguyện theo Giới Hạnh và kiêng cữ.

Những chữ “veramani-sikkhapadam samadiyami” có nghĩa là: “Giới Hạnh rèn luyện việc kiêng cữ con nguyện làm theo”, được dùng cho tất cả Năm Giới và cho thấy rằng đó không phải là những điều răn hay mệnh lệnh phải thực hiện, mà là những điều để tu tâm, rèn luyện đạo đức, là những giới hạnh đạo đức mà mọi người tự nhìn nhận là đúng, là tốt lành và nên để tâm giữ gìn để không vi phạm những giá trị về đạo đức con người.

Mọi người nhận lấy Năm Giới Hạnh làm mực thước sống, làm điều luật riêng của bản thân mình để tuân theo một cách tự nguyện với đầy đủ ý thức và sự hiểu biết về những giới hạnh đạo đức này. Ở đây, việc giữ gìn không vi phạm giới hạnh là một việc làm đạo đức với mọi người, chúng sanh và với chính bản thân mình. Vì vậy trong suốt quá trình giữ gìn giới hạnh đạo đức để mang lại phúc lành và lợi lạc cho bản thân mình là hoàn toàn dựa vào nền tảng là sự tự chịu trách nhiệm của mình.




III
Những Giới Hạnh Là Cần Thiết
Để Tu Dưỡng Đạo Đức



Một số người tranh luận rằng vì việc tu dưỡng hay rèn luyện đạo đức là việc tự nguyện của mọi người tự thực hành điều đó là được rồi, khi họ đã có được ý định tu dưỡng đạo đức theo cách nhìn, cách nghĩ về những gì là đúng, những gì là sai, như vậy. Có thêm những điều luật hay giới luật cũng chỉ làm là dư thừa hay thậm chí làm cho mọi việc tệ hơn, vì những giới luật có thể dẫn đến những quan niệm mang tính giáo điều về đạo đức hay tạo ra hệ thống hay khuôn khổ gò bó về đạo đức.

Mặc dù sự thật là những việc “luân thường đạo lý” không phải làm bằng hay hiện thực hóa được dễ dàng bằng một ‘khuôn’ giới luật hay điều luật, nhưng những giới luật cơ bản ở đây là cần thiết vì mọi người có thể tự nguyện tìm hiểu và chọn nó làm tiêu chí sống hàng ngày để gìn giữ “luân thường đạo lý” trong cuộc sống, bằng cách kiểm soát hay tránh bỏ những ô nhiễm, bất tịnh trong suy nghĩ và hành động hàng ngày.

Những giới hạnh giúp cho con người nuôi dưỡng phong cách và tấm lòng đạo đức, vì chúng đóng vai trò thay thế những điều xấu ác ngược lại kia. Vì rõ ràng rằng, khi một người tuân giữ giới hạnh, thì chắc chắn người đó đã tránh làm điều xấu ác ngược lại, như sát sanh, trôm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu, dùng chất độc hại vốn có nguồn gốc từ và sẽ phát sinh Tham, Sân, Si; Và sẽ tạo ra đường mòn cho những nghiệp ác.

Bằng cách làm theo giới hạnh, chúng ta cũng làm cho suy yếu những gốc rễ của những điều xấu ác đó trong ta, xua đuổi những bất thiện căn đó bằng những thiện căn, những “Hành” tạo nghiệp thiện. quá trình diễn ra là vậy, những hành động có giới hạnh sẽ dần thay thế những hành động xấu ác, và càng ngày càng tăng trưởng “Hành” thiện và “Nghiệp” thiện. Mỗi lần Giới Hạnh được gìn giữ, mỗi lần tâm thiện càng tăng trưởng, vững vàng hơn để có thể đối diện, vượt qua những cám dỗ bất thiện to lớn hơn có thể gặp phải sau này.

Cuối cùng, những việc giữ Giới Hạnh, tăng trưởng “hành động thiện”, “nghiệp thiện” trở thành một lối mòn, trở thành quán tính tốt, lặp đi lặp lại (asevana paccaya) để tích luỹ nhiều nghiệp tốt hàng ngày.

Người đã thực hành việc giữ giới dẫn đến tăng trưởng tâm thiện hay những hành động tạo tác hướng thiện (Hành thiện) thường luôn luôn có thói quen làm nhiều, nhiều thêm việc tốt, việc thiện. Như vậy, Năm giới là thật sự cần thiết và không thể thiếu được trong việc tu tập đạo đức của những Phật Tử tại gia.




IV
Đặt Mình Vào Vị Trí Của Người Khác
Theo Quan Điểm Của Giáo Pháp



Khi Đức Phật đến làng Veludvara ở nước Kosala, Người được những dân làng yêu cầu Đức Phật chỉ dạy họ cách để họ có thể thực hành để sau này được tái sinh về những cõi trời phúc lành mà những người có đức hạnh thường được tái sinh về. Đức Phật đã khuyên dạy họ cách quán chiếu theo Giáo Pháp khi so sánh mình và những người khác, có nghĩa là đặt mình vào vị trí của người hay chúng sinh khác, để có được sự hiểu biết đúng đắn (chánh kiến) trong việc tuân giữ Năm Giới.

Ví dụ:

Về Vấn Đề Sát Sinh: Mọi người đều mong muốn được sống, không muốn chết, mọi người đều muốn mưu cầu hạnh phúc, không ai muốn đau khổ.

Nếu ai đó giết chúng ta, đó là điều chúng ta không thích, là điều gây đau khổ cho chúng ta. Tương tự vậy, khi mình giết một người hay chúng sinh khác đang muốn được sống và không muốn chết, mình đã làm cho họ đau khổ và ngược lại mong muốn của họ.

Vì vậy, những điều không làm mình vui, mà làm mình đau đớn, đau khổ thì cũng sẽ làm cho người khác hay chúng sinh khác không vui, mà làm họ đau đớn, đau khổ. Cho nên, ở trên đời những gì mình không muốn thì cũng đừng làm cho người khác.

Vì do hiểu được, quán chiếu được lẽ phải này, mọi người sẽ kiêng cữ việc sát sanh, giết chóc. Người đó cũng luôn luôn khuyến khích người khác không sát sanh và cùng đánh giá cao, hoan nghênh việc không sát sanh. Ba nghiệp thân, tâm cũng trở nên thanh tịnh, trong sạch.

Cách quán chiếu như vậy là phù hợp với Giáo pháp, và người đó sẽ hiểu biết đúng đắn hơn về những Giới Hạnh khác.

▪ Trong trường hợp giới hạnh thứ năm, mặc dù việc uống rượu hay dùng những chất độc hại chỉ là liên quan đến người đó, nhưng nó lại là nguy hiểm nhất, vì việc uống rượu, dùng ma túy hay những chất độc hại sẽ khiến dẫn đến vi phạm những giới hạnh khác. Không cần phải đưa ra thêm nhiều ví dụ, điều này tất cả chúng ta đã chứng kiến hay biết qua nhiều những tội lỗi, tội ác, tai nạn đã gây ra bởi những người uống rượu, ma túy trong xã hội. Thậm chí họ đã trở thành những tội phạm nghiêm trọng của xã hội, gây hại cho chính bản thân mình và/hay người khác.

=> Vì vậy, ai giữ được Năm Giới Hạnh đạo đức thì chính là tài sản cho chính mình và cho mọi người khác. Thật vậy, trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara iv, 245), Đức Phật đã so sánh việc giữ gìn Năm Giới là năm món quà quý giá. Khi bạn giữ năm giới hạnh đạo đức, bạn đã mang tặng sự “không sợ hãi” hay “sự yên tâm, lòng từ bi và thiện chí” cho tất cả chúng sinh bằng những đức hạnh của mình. 

Vậy thế giới, một xã hội, một cộng đồng hay một tập thể gồm những người tôn trọng, giữ gìn những giới hạnh là nơi an toàn, đầy tình người và những thiện chí dành cho nhau.





V
Giới Hạnh Thứ Nhất:
Không Sát Sinh



Chữ “panatipata” được ghép bởi hai từ: “pana” có nghĩa là chúng sinh, sinh vật và từ “atipata” có nghĩa là “tấn công”, “hạ gục”, tức là giết chết, tiêu diệt, hủy diệt. 

Theo quyển “Chú Giải Bộ Pháp Tụ” (Atthasalini), thì hành động sát sinh xảy ra khi có đủ năm (5) điều kiện để gọi là một tội sát sinh hay một phạm giới sát sinh, đó là:

(1) Người hay sinh vật phải đang còn sống trước khi sát sinh.

(2) Người sát sinh phải biết rõ người hay sinh vật đó còn sống trước khi hành động sát sinh.

(3) Người thực hiện phải có ý định thực hiện việc sát sinh.

(4) Phải có xảy ra hành động sát sinh gây ra sự chết.

(5) Cái chết phải là do hành động sát sinh đó gây ra.

Nếu những điều kiện này có mặt thì giới hạnh về sát sinh đã bị vi phạm. Người đó mang tội sát sinh.

(I) Những Điều Kiện Tạo Thành Tội Sát Sinh:

(1) Điều quan trọng nhất cần lưu ý ở đây là ý định hay sự cố ý giết. Sự cố ý là một hành động của tâm, một tâm hành tạo tác chịu trách nhiệm cho hành động hay nghiệp (kamma) sát sinh. Nếu không có ý định hay sự cố ý, thì không thể tạo thành tội sát sinh, ví dụ như mọi người có gắng “phủi” con kiến khỏi bản thân mình để nó khỏi cắn, nhưng vô tình làm con kiến nhỏ bé bị chết. Đó chưa phải là một hành động sát sinh nếu người đó thật sự không có ý định giết con kiến. Việc sát sinh phải là một hành động thuộc về thân vì hành động sát sinh thường được thực hiện một cách vật lý bằng chính tay chân người, nhưng chủ nhân thật sự của hành động đó là tâm, tâm dùng tay chân, thân mình như một công cụ để làm việc sát sinh.

(2) Điều thứ hai quan trọng cần lưu ý là những hành động gây ra cái chết, nó không nhất thiết phải thực hiện bằng chính tay chân của người thực hiện. Hành động sát sinh có thể được tiến hành bằng một mệnh lệnh, một chỉ thị để giết. Mệnh lệnh hay chỉ thị có thể là bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng những cử chỉ ra hiệu. Người đưa ra mệnh lệnh hay chỉ thị giết là phạm tội sát sinh, bởi vì ý định hay sự cố ý giết phải chịu trách nhiệm về hành động sát sinh xảy ra gây ra cái chết. Ví dụ, một người bình thường hay trong một doanh nghiệp chuyên mua súc sinh về để giết mổ làm thịt. Mặc dù việc giết mổ được thực hiện bởi những “người giết mổ” ở những lò sát sinh, nhưng bản thân “người chủ” hoặc “những người ra lệnh hay chỉ thị giết mổ” hàng ngày cũng chịu hoàn toàn tội sát sinh, trong một ý nghĩa đạo đức nào đó, người ra lệnh giết có thể cũng mang tội hay nghiệp ác nặng nề hơn cả những kẻ cầm dao giết mổ.

(3) Điều thứ ba quan trọng cần lưu ý là hành động sát sinh được coi như đã tạo thành khi người thực hiện sát sinh biết hay ý thức rõ được người hay sinh vật bị giết hại vẫn còn đang sống trước khi bị giết. Ví dụ nếu một người rửa rau xanh để ăn không hề biết rằng trong rau xanh vẫn còn sâu đang sống và đã vô tình làm chết nó, thì đó không phải là sát sinh, vì người đó không hề biết được con sâu vẫn còn đang sống trong rau.

(4) Cuối cùng, người hay sinh vật phải bị chết bằng chính hành động sát sinh đó. Ví dụ một người cầm dao đang rượt đuổi nạn nhân của mình, nhưng nạn nhân vì đang cố trốn chạy mà bị té đập đầu vào đá và chết. Thì hành động này không được gọi là sát sinh một cách hoàn toàn, vì hành động giết chưa được xảy ra, chưa thực hiện bởi người rượt đuổi mặc dù người đó đã có ý định giết người.

▪ “Điều này cũng rất khó được chấp nhận về mặt luân thường đạo lý là người không mang tội sát sinh. Tuy nhiên, vì người chết đã bị ngã chết trước khi có hành động sát sinh xảy ra. Người đời có thể giả thiết rằng, nếu người kia dừng lại hoặc nếu người kia năn nỉ hoặc nếu người kia không bị vấp té, thì có thể người rượt đuổi cũng không ra tay giết chết. Những điều không hoàn toàn cấu thành tội sát sanh, giết người, nhưng đó cũng là một dạng tội lỗi, giống như tội ngộ sát vậy. 

Tuy nhiên, trong cuộc đời thật, chỉ có bản thân người cầm dao rượt đuổi đó mới biết mức độ cố ý giết người của mình. Nếu bản thân người đó biết chắc đó là điều ngộ sát, thì phải chịu tội ngộ sát. Còn nếu bản thân người đó tự biết là mình đã cố sát, có nghĩa là nếu người kia không té ngã chết hay không chạy thoát được, thì mình cũng ra tay giết chết, thì chắc người đó, hơn ai hết, tự biết bản thân mình là kẻ sát sinh hay không!

Đây là chỗ hay bị hiểu nhầm về vấn đề sát sanh, quý thầy sẽ giảng dạy rộng hơn về vấn đề này về góc độ vật lý và góc độ tâm linh cho các bạn hiểu rõ”. (ND).

Tuy nhiên, điểm quan trọng ở đây cần nhấn mạnh là khi hành động sát sinh không được thực hiện trực tiếp gây ra cái chết, thì không hoàn toàn cấu thành tội sát sinh.

(II) Nguyên Nhân Của Hành Động Sát Sinh:

Những hành động sát sinh bắt nguồn từ tất cả ba căn bất thiện là Tham, Sân, Si. Nguyên nhân gần sát nhất của hành động sát sinh luôn luôn là Sân Hận (thù hận, thù ghét), với Si mê ngu dốt đi kèm, bởi vì động lực hay nguồn lực thực hiện việc sát sinh là sát nhân, thù ghét.

Tuy nhiên, mặc dù Tham không đi kèm với Sân hận ngay khi xảy ra hành động giết chóc, nhưng Tham lam hay Tham dục, cũng bị tác động bởi Si mê, chính là động cơ dẫn đến sát sinh, vì mục đích có được hay thỏa mãn quyền lợi vật chất hay dục vọng nào đó. Ví dụ việc giết trâu bò, súc sanh để lấy thịt ăn hay để kinh doanh lấy lời hay để thõa mãn khoái lạc săn bắn, tìm diệt, hoặc giết người hay thú vật để được an toàn, để loại bỏ mối đe dọa về một mặt nào đó…

Hành động sát sinh do Sân hận (thù ghét, thù hận, thù địch ) như chúng ta đã thấy trong những trường hợp giết người, sinh vật hay tàn sát cùng lúc hiều người hay sinh vật, trong đó có sự thù hận, điên tiết.

Hành động sát sinh do Si mê, ngu dốt như chúng ta đã thấy trong những trường hợp giết người, sinh vật để tế lễ “thần linh” do tà kiến hay hành động giết chết những người theo tôn giáo nào đó mà người giết cho là nghĩa vì tôn giáo hay giết “vì đạo”. Việc đau lòng nhất trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ là sự tàn sát hay tận diệt tất cả những Tỳ Kheo và những Phật Tử do quân Hồi Giáo cực đoan thực hiện là một trong những hành động dã man nhất trong lịch sử con người; hay mới đây những phần tử liều chết hay đặt bom tự sát của những người Hồi Giáo cũng là những hành động sát sinh do Si mê hay tà kiến mà ra.

Điều tốt đẹp nhất trong đạo Phật, không bao giờ có cái việc là giết người hay hãm hại sinh mạng với mục đích bảo vệ tôn giáo của mình, ngay cả đối với những kẻ thật sự hãm hại đến tôn giáo của mình, thì những người Phật tử chân chính không bao giờ thực hiện hành động giết chết hay trả thù. Đạo Phật là một con đường bất bạo động, không dựa vào những quan điểm sai lạc tà kiến.

(III) Những Yếu Tố Tạo Nên Mức Độ Nghiêm Trọng Của Tội Sát Sinh:

Đó là những yếu tố quyết định tính nghiêm trọng, tính chất nặng nhẹ của hành động sát sinh hay tội sát sinh.

Mức độ nghiêm trọng nặng hay nhẹ, của hành động sát sinh là tùy thuộc vào những tính chất của nạn nhân. Nếu những tính chất, đặc điểm là ngang nhau, thì mức độ nặng nhẹ phụ thuộc vào mức độ ô nhiễm, đạo đứcnhững nỗ lực sát sinh của người sát sinh.

- Về tính chất đạo đức, những nạn nhân là người được cho là có những tính chất (phẩm chất) đạo đức và những nạn nhân là động vật được cho là không có phẩm chất đạo đức; vì vậy, tội giết người là nặng hơn tội giết động vật.

- Đối với những nạn nhân là người, tội nghiêm trong nhất là giết hại Mẹ, Cha hoặc A-la-hán. Giết những người có những phẩm chất cao đẹp về tâm sinh, những bậc Thánh nhân, những vị bậc chân tu, những người làm việc từ thiện… thì tội sẽ nặng hơn là giết những người vô đạo đức hay những loại người khác.

- Đối với những nạn nhân là động vật, mức độ nặng nhẹ tùy thuộc vào kích thước của con vật; giết những con vật to lớn thì nặng tội hơn là giết hại những con vật nhỏ hơn.

Những yếu tố khác để quyết định sự nghiêm trọng của việc sát hại động vật là tùy thuộc vào việc: vật có chủ hay vật vô chủ, vật được nuôi hay vật hoang dã, vật hiền hòa hay vật hung dữ. Giết hại những con vật trong ba trường hợp đầu sẽ nặng tội hơn là giết hại những con vật thuộc ba trường hợp sau.

(Tuy nhiên, để tránh hết tội nặng, nhẹ một cách tương đối như vậy, tốt nhất là chúng ta không nên sát sinh, trừ khi đó là những trường hợp tự vệ bắt buộc hay vì để cứu sống những người khác -ND).

- Đối với mức độ ô nhiễm hay vô đạo đức và nỗ lực giết hại của người sát sinh, một kẻ giết người máu lạnh đã cố ý, có dã tâm và kế hoạch giết người bằng lòng tham và sân hận thì tội sát sinh đó nặng hơn nhiều lần so với hành động giết người do ý định nhất thời hay do bất đồng hay trong cơn điên dại, mù quáng hay là để tự vệ. Những hành động cố tâm, có chủ định, có âm mưu, ý đồ giết người từ đầu luôn luôn là trọng tội so với những hành động giết người mà trước khi giết không hề có ý định, không có chuẩn bị và không biết hoàn cảnh tạo sát sinh sẽ xảy ra.

=> Thêm nữa, sự sát sinh mà cộng thêm bản chất bạo tàn hay tra tấn, làm đau đớn, nhục hình hay để thỏa mãn những khoái lạc bạo hành hay bạo dâm, thì mức độ đó của tội ác là vô cùng nặng nề.




VI
Giới Hạnh Thứ Hai:
Không Ăn Trộm, Ăn Cắp



Chữ “adinna” có nghĩa là “những gì không được cho” và có nghĩa đó là tài sản, của cải hay vật chất sở hữu của người khác, và người đó có quyền sở hữu về mặt pháp lý. Ví dụ đơn giản là những thứ không có hay chưa có ai là người sở hữu thì mình lấy sử dụng là không mang tội ăn cắp, vì sử dụng củi trong rừng mình đem về để nấu bếp hay trái cây rừng trong rừng mình lượm về để ăn.

Việc sở hữu lương thiện, đúng đắn chỉ áp dụng cho trường hợp người nào sở hữu những tài sản được pháp luật công nhận, bằng công sức hay sự thừa hưởng lương thiện chứ không phải bằng gian lận, chiếm đoạt; hoặc nặng hơn là sở hữu những thứ mang tính phi đạo đức gây ra đau thương, tàn phá và tội ác như ma túy, vũ khí giết người.

Theo quyển “Luận Giảng Bộ Pháp Tụ” (Atthasalini), có năm (5) điều kiện để tạo thành tội ăn cắp, đó là:

(1) Vật đó thuộc về sở hữu lương thiện của người khác về mặt pháp lý.

(2) Biết rõ, ý thức rõ vật đó thuộc về người khác.

(3) Có ý định ăn cắp.

(4) Hành động lấy cắp phải xảy ra.

(5) Việc ăn cắp đã xảy ra do hành động lấy cắp đó.

(I) Phân Loại Hành Động Lấy Cắp “Những Thứ Không Được Cho”:

Hành động lấy “Những Thứ Không Được Cho” có thể được phân thành những loại sau, đó là:

(1) Trắng trợn nhất, là những hành động đe dọa, dùng vũ lực cướp bóc, trấn lột, bắt cóc, giựt túi, bóp ngay cả giữa ban ngày.

(2) Loại thứ hai là ăn trộm, ăn cắp một cách lén lút, kín đáo mà chủ sở hữu không biết, như đột nhập vào nhà lấy tiền bạc, của cải, ăn trộm của công, của tư hay móc túi.

(3) Loại thứ ba là lừa gạt, đưa ra những lời nói sai sự thật, làm cho người khác tin tưởng để lừa, chiếm lấy tài sản của nạn nhân.

(4) Loại thứ tư là lừa đảo, mua gian bán lận, cân thiếu, bớt xén, bán gạo giao cám.

(5) Loại thứ năm là giả mạo, buôn bán đồ giả mạo, làm hoặc sử dụng tiền giả, vàng, bạc… giả mạo, cố tình bán thuốc men giả.

(6) Loại cuối cùng là, mặc dù trông có vẻ là tội nhẹ, nhưng thường xuyên xảy ra khắp nơi hàng ngày đó là hành động ăn cắp vặt, như nhân viên lấy những đồ đạc, vật dụng nhỏ trong chỗ làm…để đem về sử dụng miễn phí, khỏi tốn tiền mua, mà không được cho phép; Hay một cái mũ, nón, một cây dù của ai bỏ quên…cũng có ít khi người ta trả lại cho khổ chủ.

(II) Nguyên Nhân Của Hành Động Lấy Cắp “Những Thứ Không Được Cho”:

Những hành động lấy cắp những thứ không được cho: Ăn cướp, ăn trộm, ăn cắp, trộm vặt… đều xuất phát từ căn Tham hoặc Sân, cả hai được đi kèm với Si mê, ngu dốt. Thông thường, hành động ăn cướp, trộm cắp thường xuất phát từ lòng Tham. Còn những hành động ăn cướp, trộm cắp không xuất phát từ ý muốn sở hữu hay sử dụng nó mà chỉ làm cho khổ chủ bị thiệt hại, khổ sở, là xuất phát từ lòng sân hận, thù ghét, ý muốn làm khổ người khác, vì mục đích trả thù, hay tương tự như vậy.

(III) Những Yếu Tố Tạo Nên Mức Độ Nghiêm Trọng Của Tội Lấy Cắp Những Thứ Không Được Cho:

Đó là những yếu tố quyết định tính nghiêm trọng, tính chất nặng nhẹ của hành động lấy cắp những thứ không được cho.

Mức độ nặng nhẹ của hành động ăn cắp ăn trộm được quyết định bởi tính chất (phẩm chất) đạo đức của nạn nhân và giá trị của thứ bị lấy cắp.

Đầu tiên, ăn cắp từ những người đức hạnh hay những người từ thiện thì mang tội nặng, đáng chê trách hơn là ăn cắp từ những kẻ vô đạo đức hay những loại người khác.

Thứ hai, ăn cắp những đồ vật, tài sản càng nhiều giá trị thì tội nặng hơn là ăn trộm những vật có giá trị nhỏ bé. Tuy nhiên, ở đây cần ghi nhớ rõ giá trị không phải chỉ là giá trị quy đổi ra bằng tiền. Ví dụ, việc lấy hay lấy cắp một bình bát của một tu sĩ dùng nuôi bản thân qua ngày vì mục đích tu hành cao cả thì chắc chắn là mang tội nghiêm trọng và đáng chê trách hơn là ăn cắp một ngàn USD từ một người giàu có. Tương tự, lấy hay đánh cắp mấy trang giấy của một bài soạn, một bài ghi chú của một học sinh hay sinh viên chuẩn bị vào phòng thi thì có thể mang tội nặng hơn là ăn cắp một cái TV của anh ta, vì việc không thi được hay thi rớt sau một thời gian học hành có thể sẽ làm người đó buồn bã thất vọng đến mức nào.

Cũng như tất cả những hành động vi phạm giới hạnh, mọi hành động trộm cắp cũng đều do tâm cố ý, tâm tạo tác và nguồn lực thúc đẩy là mức độ ô nhiễm hay vô đạo đức của người thực hiện mà ra, chính mức độ của hai nguyên nhân này cũng quyết định mức độ nặng nhẹ của tội của những hành động trộm cắp.

Và đa số những hành động cướp bóc, trộm cắp xuất phát từ nguyên nhân Sân hận, thù ghét cũng được cho là nghiêm trọng hơn, nặng tội hơn là nguyên nhân Tham lam bình thường. Như những vị trí trên, việc lấy hay ăn cắp một bình bát của một thầy tu chỉ vì ghét người ta, hay việc lấy vở sách của một người chuẩn bị đi thi để người này thi không được, hay việc lấy một chiếc xe đạp của một người chỉ để làm người đó không có phương tiện để đi làm hàng ngày nuôi thân nuôi gia đình thì đó không phải là những tội nhẹ về mặt lương tâm, đạo đức.

Nói chung, về mặt đạo đức, các bạn hay tập nghĩ một cách là: “Mức độ đáng thương của nạn nhân, chưa chắc thuộc về giá trị quy đổi ra tiền, càng nhiều thì tội hay mức độ đáng trách của người gây ra sẽ nặng hơn, dù về mặt pháp luật có thể người ta kết đó là một tội nhẹ”.




VII
Giới Hạnh Thứ Ba:
Không Tà Dâm



Giới hạnh này là sự kiêng cử, không thực hiện những quan hệ nam nữ bất chính (tà dâm) hay bất hợp pháp. “Luận Giảng Bộ Pháp Tụ” định nghĩa hành động tà dâm là sự cố ý khởi sinh ở giác quan thân thông qua ý định phi pháp xâm phạm lên một người mình không có quyền xâm phạm đến”.

Ở đây, có bốn (4) điều kiện để tạo thành hành tội tà dâm, đó là:

(1) Có một người (nam hoặc nữ) là người không chính đáng để có quan hệ nam nữ.

(2) Phải có ý định quan hệ nam nữ với người không chính đáng đó.

(3) Có hành động giao hợp nam nữ.

(4) Phải có sự thích thú về việc giao hợp nam nữ đó.

- Về điều kiện thứ nhất (1), có 20 loại phụ nữ được cho là không đúng nếu đàn ông quan hệ nam nữ. Những loại phụ nữ này có thể được chia thành ba (3) nhóm chính, đó là:

1. Những phụ nữ đang được sự giám hộ, chăm sóc của cha mẹ hay người thân, họ hàng và những người hay cơ quan có quyền.

2. Những phụ nữ đã có chồng hoặc đã đính hôn.

3. Những Tỳ kheo Ni (Ni) và những người thánh phụ nữ đang theo sống đời sống Thành thiện tâm linh.

Đối với ba nhóm phụ nữ này, một người đàn ông bị cấm không được có quan hệ nam nữ với họ, theo những điều cấm kị cả trong truyền thống đạo đức và theo những giới luật tôn giáo.

- Đối với nhóm phụ nữ thứ (2) và định nghĩa về hành động tà dâm, quan hệ nam nữ bất chính ở trên, thì bất cứ người nam hay nữ nào có quan hệ nam nữ với một người nữ hay nam nào mà một trong hai người hoặc cả hai người đều đã có chồng vợ theo hôn nhân pháp lý, thì hành động đó đã được là hành động tà dâm. Có nghĩa là mọi hành động ngoại tình với một người đã có vợ, có chồng, thì đều xếp vào quan hệ bất chính và phạm giới.

- Đối với những người bị bỏ thuốc hay bị ép quan hệ thể xác bằng bạo lực hay hãm hiếp, thì người đó không bị kết tội là quan hệ bất chính hay tà dâm, vì người đó không có ý định quan hệ nam nữ và cũng không có sự thích thú trong quan hệ giao hợp, theo điều kiện (2) và (4).

(I) Nguyên Nhân Của Việc Quan Hệ Nam Nữ Bất Chính hay Tà Dâm:

Nguồn gốc của việc vi phạm giới hạnh đạo đức này luôn là Tham muốn hay nhục dục, thường đi kèm với Si mê, mù quáng.

(II) Những Yếu Tố Tạo Nên Mức Độ Nghiêm Trọng Của Tội Tà Dâm:

- Tính chất nghiêm trọng, nặng nhẹ của tội tà dâm tùy thuộc vào mức độ nhục dục là động cơ gây ra hành động tà dâm và tính chất của người bị xâm phạm tình dục. Nhục dục càng lớn thì càng dẫn nhanh đến những hành vi tà dâm. Khi nhục dục trở nên lớn mạnh và không còn kiểm soát được, thì ngay cả chuyện loạn luân hay hãm hiếp cũng dễ dàng xảy ra.

- Tùy theo mức độ phẩm chất của người bị xâm phạm, người càng có đức hạnh cao quý hay người bị xâm phạm nằm trong hoàn cảnh bị tổn thương càng nhiều, thì tội tà dâm hay hãm hiếp càng nặng. Theo đạo Phật, tội cưỡng ép một phụ nữ A-la-hán là một tội tà dâm nặng nhất.





VIII
Giới Hạnh Thứ Tư:
Không Nói Dối



Bản chất của hành động “nói dối” hay “nói sai sự thật” là ý định trong tâm của một người muốn trình bày nói cho người khác điều không đúng, không thật như là điều đúng, điều thật, như là một thông báo, thông tin chứ không phải một sự vô tình nói sai sự thật. 

Có bốn (4) điều kiện để tạo thành một tội nói dối:

(1) Câu nói, lời nói phải là không đúng, sai sự thật

(2) Phải có ý định đánh lừa

(3) Phải có nỗ lực đánh lừa

(4) Người nghe phải biết được nội dung của lời nói dối đó (dù có thể không biết đó là lời nói dối).

Lời nói dối, nói sai sự thật có thể được diễn đạt qua lời nói (bằng miệng), chữ viết hay những cử chỉ của thân (chân tay, ánh mắt, lắc đầu, gật đầu, nước mắt, nhíu mày…) hoặc thậm chí được thông qua người thứ ba mà người thứ ba có thể biết (đồng lõa) hoặc có thể không biết được nội dung đó là lời nói dối, nói sai sự thật, và người thứ ba lại đem nói với người thứ hai là đối tượng bị đánh lừa. 

Bởi vì phải có ý đồ đánh lừa người nghe thì mới gọi là hành động nói dối, chứ nếu một người nói một điều sai sự thật nhưng bản thân mình nghĩ là sự thật hoặc cũng không biết điều đó là sai sự thật, thì không có phạm giới gì ở đây. 

Nhưng nếu người nói đã có ý đồ nói dối, đánh lừangười nghe  nghe được của lời nói dối (dù biết được ý nghĩa lời nói là dối hay không), thì đó là hành động phạm giới giới cấm nói dối hay đã thành tội nói dối (cho dù việc đánh lừa có thành công hay không).

- Khác với những giới hạnh khác, hành động nói dối không cần phải đến yếu tố là người nghe bị đánh lừa, bị gạt hay bị thiệt hại vì lời nói dối đó. Chỉ cần có ý đồ nói dối, câu nói dối được diễn đạt bằng cách này hay cách khác, và người nghe nghe được rõ nội dung, là đã cấu thành tội nói dối.

(I) Nguyên Nhân Của Hành Động Nói Dối:

Cội rễ của hành động nói dối, nói sai sự thật cũng là Tham, Sân và Si.

(1) Tham lam, tham dục là nguyên nhân, đông cơ tạo ra hành động nói dối, nói sai sự thật nhằm mục đích đạt được lợi lọc vật chất hay danh phận, dục vọng nào đó… về tinh thần, cho mình hoặc cho những người thân thuộc của mình.

=> Những người bản chất chuyên nói lời xu nịnh, nịnh hót những người như cấp trên, người giàu có, quyền lực…cũng có thể xếp vào dạng này, vì mục đích nhìn có vẻ Si mê, mù quáng vì lợi lộc xa vời, nhưng đó cũng mang nguồn gốc của lòng Tham, lòng ham muốn có được quyền lợi vật chất và tinh thần do những người kia có thể mang lại. Dạng người chuyên nói lời xu nịnh cũng có xuất phát từ Sân và Si

(2) Sân hận, thù ghét là nguyên nhân, động cơ tạo ra hành vi nói dối, nói sai sự thật nhằm mục đích gây thiệt hại, làm nguy hại hay gây ra đau khổ cho người khác. Đó là những dạng nói lời thêu dệt, nói lời vu khống, nói thêm, nói bớt, nói lén, nói bịa đặt có thể trực tiếp hoặc thông qua người thứ hai, (thậm chí thứ ba), để người thứ hai (hay thứ ba) vô tình hay cố ý nói lại người thứ ba (hay thứ tư), và đến đây người thứ ba (hay thứ tư) là “đối tượng bị hại” sẽ bị hại, bị đánh lừa…

=> Hình thức nói dối, nói sai sự thật cũng tính đến dạng người chuyên nói lời xu nịnh vì sân hận, thù ghét người khác. Việc xu nịnh một người (thường là cấp trên, người giàu có, quyền lực…) bằng những lời lẽ xu nịnh nhằm mục đích làm cho người khác bị (cấp trên,…) ghét bỏ, hãm hại.

(3) Si mê, ngu dốt là nguyên nhân dẫn đến hành động nói dối, nói sai sự thật. Người nói dối không phải vì Tham lam mà có ý định lợi lộc vật chất hay tinh thần mà cũng không phải vì Sân hận, thù ghét mà nói sai sự thật để hãm hại người khác, nhưng chỉ đơn giản nói để cho vui, ví dụ như nói giỡn, nói đùa, nói phóng đại câu chuyện, nói chuyện tào lao, tầm phào, nói chuyện ăn không ngồi rồi, không có gì là sự thật, không ích lợi gì hết.

=> Dạng người chuyên nói lời xu nịnh không phải vì Tham để được lợi lọc cũng không phải vì Sân hận, thù ghét người khác mà xu nịnh người này, nhưng hành động xu nịnh chỉ đơn giản là hay xu nịnh, thích nịnh hót như một bản chất 'truyền kiếp' của sự Si mê.

(II) Mức Độ Nghiêm Trọng Của Tội Nói Dối, Nói Sai Sự Thật:

Mức độ nghiêm trọng hay nặng nhẹ của hành động nói dối, nói sai sự thật là tùy thuộc vào: Mức độ của quyền lợi bị thiệt hại, mức độ động cơ nói dối và tinh thần của người nghe, người bị nói dối, bị đánh lừa.

(1) Tội càng nhẹ khi quyền lợi bị thiệt hại của người bị đánh lừa là nhỏ, và tội càng nặng khi sự thiệt hại vì hành động nói dối đánh lừa gây ra là to lớn. Việc nói dối, đánh lừa người nghe hiểu lầm người này người kia thì tội nhỏ hơn là nói sai sự thật để người nghe hiểu lầm mà hãm hại, đánh đập hay trừng phạt người kia.

(2) Sự nói sai sự thật cũng là tội nhẹ trong trường hợp phải nói dối để cứu bản thân mình hay người thân hay người khác khỏi bị thiệt hại về vật chất hay bị nguy hại, những tội sẽ là nặng hơn nếu nói sự thật nhằm mục đích gây ra thiệt hại hay làm hại người khác.

(3) Đối với người nghe, người bị đánh lừa bằng lời nói dối, nếu người nghe là những người đức hạnh, thánh thiện, người làm từ thiện, người đáng tôn kính hơn…đang bị lừa dối, thì tội nói dối càng nặng, càng đáng chê trách hơn. Ngược lại, nếu nói dối, nói sai sự thật với loại người vô đạo đức thì tội nói dối có thể nhẹ hơn. Chẳng hạn nói dối chỉ sai đường cho một kẻ lưu manh chạy vào chỗ bị cảnh sát bắt thì không phải là một tội nặng. Nhưng nếu cố ý nói dối, chỉ sai đường cho một thầy tu hoặc cho một đứa bé vẫn còn ngây thơ trong sạch để họ bị lạc đường, thì là một tội nặng và đáng chê trách.

(4) Những trường hợp nói dối, nói sai sự thật nặng tội nhất trong Đạo Phật là :

(a) Đối với tất cả mọi người: hành động nói dối để phỉ báng, bôi nhọ Phật, Bồ Tát và những bậc A-la-hán.

(b) Đối với Tỳ Kheo, Tu Sĩ Phật Giáo: hành động tuyên bố sai sự thật rằng mình đã chứng ngộ những tầng thiền định (jhana) hay chứng ngộ những tầng Đạo và Quả (Magga & Phala, tức là bốn giai đoạn tu tập và bốn thánh quả). Trong trường hợp một Tỳ Kheo hay một sư thầy phạm điều nói sai sự thật này, thì thầy ấy sẽ bị trục xuất khỏi Tăng Đoàn.




IX
Giới Hạnh Thứ Năm: 
Không Uống Rượu, Không Dùng Ma Túy
và Không Dùng Những Chất Độc Hại



Hành động dùng những chất độc hại hay nói chung là những hành động tự chuốc vào cơ thể mình những chất độc hại, những chất kích thích gây ra nhiều động cơ xấu, gây đau khổ, gây ra bệnh tật và nhiều tệ nạn cho mình và xã hội. Đó là những hành động: Uống rượu, hút chích ma túy, á phiện, cần sa. Có bốn (4) điều kiện để hình thành vi phạm giới hạnh này hay tội dùng chất độc hại, đó là:

(1) Phải có chất độc hại

(2) Phải có ý định dùng nó

(3) Phải có hành động dùng (uống, hút, chích…)

(4) Phải có sự đưa vào trong cơ thể thật sự (đã uống vào, đã hút vào, đã chích vào mạch máu, cơ bắp). Chất có hại đã thật sự đi vào cơ thể.

Về Điều kiện (4) chỉ vi phạm giới hạnh hay phạm tội khi chất độc hại được đưa vào cơ thể một cách cố ý, mà không cần biết mức độ độc hại hay hậu quả làm hại của hành động đưa chất dộc hại vào cơ thể đó.

- Dĩ nhiên, người bị cưỡng ép hay người bị đưa hay tiêm chích chất độc hại vô mình thì không có tội, vì người đó bị cưỡng ép, không cố ý.

- Những người dùng thuốc có chứa chất cồn hay những thuốc mang tính độc hại (như thuốc liều cao, kháng sinh…nhiều tác dụng phụ, hậu quả độc hại) thì không có tội, vì người dùng những loại thuốc này có ý định là để phòng chống bệnh tật.

- Đối với những Tỳ Kheo hay tu sĩ Phật Giáo, việc dùng rượu như thành phần hay dẫn xuất thuốc để trị bệnh, Đức Phật đã cho phép dùng rượu mạnh pha với tinh dầu được nấu ra. Tuy nhiên một số Tỳ Kheo pha nhiều rượu trong dầu, họ bị say rượu sau khi dùng thuốc dầu. Để ngăn chặn điều này, Phật đã đề ra giới luật là: “Cho phép các Tỳ Kheo pha rượu vào trong thuốc dầu để uống, miễn là màu sắc, mùi hương, mùi vị không được quá nồng mùi rượu”, theo Luật Tạng, Giới Luật (Vinaya), Đại Phẩm (Mahavagga 14).

Việc uống rượu thuốc có pha rượu hoặc việc nấu nướng thức ăn có bỏ thêm rượu, bia để tăng thêm hương, mùi vị cũng không nên thực hiện, cho dù những việc này chưa chắc đã phạm giới hạnh về uống rượu này. Nhưng vấn đề là nếu mình hiểu biết được rượu là một trong những chất độc hại, thì mình không nên vì một chút mùi hương, mùi vị của miếng ăn mà không kiểm soát, kiềm chế việc đưa chất độc, chất gây nghiện vào cơ thể mình. Thay vì uống thuốc thảo dược ngâm rượu (thuốc Bắc, thuốc Nam) chúng ta vẫn còn chọn lựa dùng những chế phẩm rất tốt không dùng rượu cũng làm từ thảo dược đó để dùng trị bệnh, không nhất thiết phải dùng rượu.

Những chất độc hại, gây nghiện dù chỉ là một số lượng nhỏ đưa vào người, cũng có thể làm khởi sinh hàng loạt những căn bất thiện, những ô nhiễm và bất tịnh trong tâm, làm cho con người không còn chánh niệm, không còn thông minh và thường đầu óc bị lung lạc.

Không kể đến những chất độc hại khác, việc uống rượu như là một ví dụ, chỉ trong một lần uống rượu, thì những việc thường hay xảy ra là:

(a) Người uống bắt đầu thấy bị kích thích, và dẫn đến say từ mức độ nhẹ cho đến say hoàn toàn mất trí.

(b) Người uống bị kích thích, bắt đầu nói, nói nhiều, nói to, nói thiếu suy nghĩ, nói không để ý người khác quan sát hay người khác đang nói, nói tranh giành, nói theo, nói đùa, nói phóng đại, thậm chí bịa đặt, nói với tâm sân hận, thù ghét, nói về người thứ ba không có mặt, nói về những đề tài mà mình không hề thông thạo, không mang lại một chút lợi ích nào, nói bông đùa, chế nhạo, chọc ghẹo nguời xung quanh, người đi qua lại, nói những câu hạ thấp phẩm đạo đức của chính mình, nói chửi tục, chửi thề, càng uống say càng nói nhiều, toàn những lời nói mất kiểm soát như trên.

(c) Vì khi bị rượu và thuốc lá (đối với những người vừa nghiện rượu, vừa nghiện thuốc lá) cùng tấn công, kích thích lên thần kinh trung ương và các giác quan, người uống rượu liên tục nghĩ và nói những lời không kiểm soát như trên nên sẽ xảy ra cãi vã, tranh luận, tranh chấp, bảo thủ, chấp thủ cái “Ta” là đúng, rồi dẫn đến xô xát, đánh lộn, tệ nạn, tai nạn, cho bản thân mình và người khác.

(d) Rồi những tai nạn, tệ nạn, đau khổ, bệnh tật này sẽ trở thành gánh nặng cho vợ con, cha mẹ và gia đình và chính bản thân mình. Có người chịu hậu quả chậm, có người kết liễu cuộc đời mình rất nhanh bằng con đường tai nạn, tù tội, thù oán...

(e) Một vấn đề phổ biến khác là:

Việc uống rượu cũng kích thích thần kinh, làm mù quáng suy nghĩ, không kiềm chế được những giác quan và những dục vọng thấp hèn. Những người đàn ông, phụ nữ uống rượu bên cạnh hay gần người khác giới, để khởi sinh những ý nghĩ và hành động bất chính về quan hệ nam nữ, để dẫn đến phạm giới tà dâm và gây ra nhiều tệ nạn như bệnh tật, tốn tiền của, xô xát, hút chích. Một điều khoa học tâm sinh lý là nếu những chất kích thích cộng với việc giao lưu, tiếp xúc với người khác phái thì chắc chắn sẽ nảy sinh ra ý nghĩ hay hành động bất chính.

Thông thường những quán bán rượu có những người phục vụ là nữ thì nhiều khách nam đến uống rượu hơn, vì người chủ quán biết được sự cộng hưởng về mặt tâm sinh lý này.

(f) Về khoa học, thì khi đã uống rượu hay dùng chất độc hại, kích thích, gây nghiện, thì người dùng nó không còn danh dự, không còn sợ mất danh dự, không còn thấy sỉ nhục về những hành động sai trái, bất chính mà mình đang gây ra, như lời nói, hành động, xô xát, đánh lộn, chọc ghẹo, chế giễu, chữi bới, văng tục, sàm sỡ…

Trong Kinh “Lời Khuyên Dạy Sigala” (Sigàlovàda-sutta) thuộc “Trường Bộ Kinh”(Dìgha Nikàya 31), Đức Phật đã giảng dạy cho Sigala về những tác hại trước mắt của việc uống rượu như sau:

“Này chủ gia trẻ, có sáu nguy cơ của việc uống rượu:

- Mất tài sản thật sự;

- Gây thêm cãi vả, xích mích;

- Gây bệnh tật;

- Mang tiếng xấu rượu chè;

- Tư cách không đàng hoàng, không đứng đắn;

- Làm ngu mụi trí óc.”

Nên Giới Hạnh thứ năm là giới hạnh quan trọng nhất vẫn phải kiêng cử nghiêm ngặt. Người đã vi phạm Giới Hạnh này, do hàng loạt những lý do bên trên, thường cũng dễ dàng vi phạm bốn giới hạnh kia.

Điều đó là hoàn toàn đúng trong cuộc sống hiện nay của chúng ta, đặc biệt là ở nhiều nước ít phát triển, rằng khi dân số nghiện rượu, chất độc hại càng nhiều, thì tệ nạn xảy ra càng nhiều. Tệ nạn trong gia đình và xã hội chính là sự vi phạm bốn giới hạnh kia, mà thực sự nguồn gốc phần nhiều là do vi phạm giới hạnh thứ năm này. Các phật tử rất dễ dàng lấy ra nhiều ví dụ xung quanh mình về sự thật này.

=> Nhiều cảnh tang thương đau lòng đã xảy ra mà nguyên nhân ban đầu cũng là do rượu bia, ma túy mà ra. Như nhiều định nghĩa về tâm lý họ: Rượu, thuốc lá, ma túy, và những chất độc hại gây nghiện chính là kẻ thù ghê gớm nhất của mọi người và xã hội.

(I) Nguyên Nhân Của Việc Uống Rượu, Dùng Chất Độc Hại:

Nguồn gốc, động cơ của việc uống rượu và dùng chất độc hại là lòng tham dục (Tham) đi kèm với Si mê, ngu dốt, mù quáng, bướng bỉnh, bất cần (Si).

Riêng về vấn đề uống rượu, rất nhiều người uống rượu không phải vì tham lam, mà vì thích trầm ngâm hay quên đi những nhọc nhằn, đau khổ, buồn phiền và sự nhàm chán của kiếp người. Nghe thì thấy dễ thông cảm, nhất là đối với những vùng quê nghèo khó, cuộc sống không một ngày vui, tuyệt vọng ở những nước ít phát triển. Nhưng thật ra cách suy nghĩ như vậy là cực đoan, là si mê và là mù quáng, vì càng nghèo khó, càng đau khổ, càng tuyệt vọng mà càng uống rượu vô người thì rõ ràng chỉ tàn phá thêm cơ thể, thân tâm của mình, chỉ làm cho những đau khổ càng tăng lên bội phần hoặc kéo theo những tệ nạn, đau khổ khác mà mình chưa vượt qua đau khổ này đã phải đối diện với hàng loạt tệ nạn đau khổ khác.

Nếu chúng ta có dịp đi qua những quốc gia Phật Giáo dù đã phát triển ít nhiều như Thái lan hoặc kém phát triển như Lào, Cam-Pu-Chia, Miến Điện (Myanmar) và Tích Lan (Sri Lanka). Ở đó những vùng quê cũng còn nghèo khổ và mọi người cũng sống lam lũ, nhọc nhằn và thậm chí quá buồn chán. Nhưng chúng ta không thấy nhiều người trong số họ uống rượu. Ở những nước Phật giáo, họ đã biết được tác hại không thể tính được của việc uống rượu, nên đa số Phật tử ở những nước này không uống rượu. Ngay cả thủ đô sầm uất Bangkok ở Thái Lan, nơi được cho là nhiều tệ nạn, đàn ông ở đó cũng không uống rượu thường xuyên và uống nhiều như những người ở xứ khác.

Ở những nước này, tính theo bình quân, đa số mọi người có tánh tình hiền hòa, nhẫn nhục, hiếu khách hơn những nước có nhiều người uống rượu khác như Triều Tiên, Trung Quốc…[1]

Không có những điều kiện rõ ràng để phân định mức độ nghiêm trọng hay nặng nhẹ của hành động vi phạm giới hạnh thứ năm này. Vì tất cả những tội lỗi xảy ra của việc phạm giới này là rất nhiều, nhưng phần lớn thể hiện bằng việc phạm vào bốn giới hạnh kia (là sát sinh, tà dâm, nói dối, trộm cắp).

Ví dụ: Một con nghiện ma túy, vì si mê, ngu xuẩn nên dính vào vòng con nghiện, nên khi thiếu tiền, thiếu ma túy, thì sẽ đi nói dối, lừa đảo bạn bè, gia đình để lấy được tiền, thì cùng lúc vi phạm giới nói dối, giới lừa đảo hoặc ăn cắp; rồi khi bị kích thích nhiều hay gặp cản trở trên đường đi lừa gạt nói trên, sẽ nảy sinh ra bạo lực, có thể dẫn đến xô xát, đánh người, giết người, lại phạm giới sát sinh.

Vì vậy, chỉ có một tiêu chuẩn để quyết định mức độ nghiêm trọng của việc uống rượu, dùng chất độc hại: Đó là người uống nhiều, hút nhiều, chích nhiều thì tội càng nặng: Vì uống, hút, chích nhiều càng dễ dẫn đến nhiều tai nạn, tệ nạn, hậu quả nặng nề; Người uống ít, hút ít, chính ít thì tội sẽ nhẹ hơn, khi chưa gây ra nhiều tai nạn, tệ nạn, đau khổ, hậu quả cho mình và người khác, và còn cơ hội được cai nghiện, sửa đổi.




X
“Ích Lợi Của Việc Uống Rượu Có Chừng Mực”:
Sự Thật Hay Ngụy Biện?



Một số nghiên cứu mới đây cho rằng những người uống rượu, bia bằng 1-2 onces cồn mỗi ngày có xu hướng sống thọ hơn những người uống nhiều và những người không uống rượu bia. (1 ounce alcohol khoảng bằng 1 ly 30ml rượu vang, khoảng 1 lon bia hay một ly rượu pha). Dựa vào những công bố này, nhiều thầy thuốc đã khuyến khích bệnh nhân của mình tập thói quen uống “chừng mực” như vậy.

Năm 1991, trong một quyển sách được xuất bản rộng rãi có tên “Chương Trình Đảo Ngược Bệnh Tim”, trang 277-278, bác sĩ tim mạnh nổi tiếng Dean Ornish đã đưa ra những lý do gây bệnh tật và tệ nạn của việc uống rượu sau đây:

(1) Đa số những người uống quá nhiều rượu và ngã bệnh (gan, thần kinh, tim mạch, tiểu đường…tất cả những loại bệnh) và vì sức khỏe suy nhược, họ phải bỏ rượu. Nhưng đối với những người nghiện rượu, bệnh thường khó chữa vì quá nặng, không chữa chạy đúng mức trong thời gian vẫn tiếp tục uống rượu (điều này rất phổ biến ở những nước nghèo, ít phát triển như Việt Nam). Nên đa số họ không vượt qua bệnh và tử vong. Họ chết không phải vì bỏ rượu như nhiều luận điệu buồn cười giả định, mà họ chết vì họ là người nghiện rượu, và nếu thấy khỏe lại một chút, họ bắt đầu uống rượu lại thì họ sẽ chết nhanh hơn, chứ không phải chết vì bỏ thói quen uống rượu.

(2) Thứ Hai, ở Phương Tây hay ở thành thị, có thể những người uống rượu bia ‘chừng mực’ sẽ sống thọ hơn những người không uống rượu, vì họ hay uống sau khi làm việc để giao lưu, làm ăn và những người này thường có sự nâng đỡ, lợi lộc, vì làm ăn trong công việc và có thu nhập tốt hơn, nên có thể có điều kiện sống tốt hơn những người nghèo không uống rượu bia và cũng không có thu nhập cao hơn. Đó là một lưu ý nhỏ trong xã hội, để bác bỏ luận điệu cho rằng việc uống rượu bia điều độ sống thọ hơn không uống.

(3) Thứ ba, rượu hay thức uống có cồn có tác dụng độc hại trực tiếp đối với cơ tim, cũng như nhiều bộ phận khác của cơ thể, đặc biệt là gan.

(4) Thứ tư, ở những nước châu Mỹ, 50-80% tai nạn xe cộ chết người đều xuất phát từ nguyên nhân uống rượu, vậy không thể nói là uống rượu có tuổi thọ cao hơn không uống rượu.

(5) Thứ năm, mặc dù uống rượu có thể tăng một số Cholesterol tốt là HDL, đó chỉ là một phần câu chuyện. Có 2 loại Cholesterol, đó là: HDL2 và HDL3. HDL2 giúp bảo vệ động mạch vành của tim, trong khi đó HDL3 thì làm hại. Uống rượu làm tăng nhanh lượng cholesterol HDL3.

(6) Thứ sáu, một nghiên cứu được tiến hành trên 7.188 phụ nữ tuổi từ 25-74 uống rượu “chừng mực’, điều độ hàng ngày, thì trong số họ có trên 50% đang phát hoặc nguy cơ ung thư vú.




XI
Những Yếu Tố Hỗ Trợ
Việc Giữ Gìn Những Giới Hạnh



Sụ kiêng cữ những Giới Hạnh về cơ bản là những yếu tố thuộc về tâm trong 3 phần của “Bát Chánh Đạo”, đó là: Chánh Nghiệp: Hành động đúng đắn, Chánh Ngữ: Lời nói đúng đắn và Chánh Mạng: Công việc, nghề nghiệp đúng đắn, chân chính. Những điều này được đi kèm, hỗ trợ bằng những tâm hành thiện được gọi là Đức Hạnh của tâm ý có thể xua đuổi, diệt trừ những ý định bất thiện dẫn đến phạm giới. Vì vậy, Đức Hạnh không hoạt động một mình. Đức Hạnh có những yếu tố đi kèm khác để cùng tạo nên những tính chất của Đức Hạnh. 

Những yếu tố thuộc về tâm sẽ giúp làm nâng cao việc tôn trọng, giữ gìn Giới Hạnh, như là:

Lòng sỉ nhục và Lòng sợ hãi về mặt đạo đức,

Lòng tin,

Sự hiểu biết,

Sự chú tâm và chánh niệm,

Sự nỗ lực, cố gắng,

Kiên nhẫn, nhẫn nhục

(1) Lòng sỉ nhục về mặt đạo đức (hiri) và Lòng Sợ Hãi (ottappa) về mặt đạo đức - khi thực hiện những hành động xấu ác là những nguyên nhân gần nhất, cận kề nhất để giúp ngườ ta gìn giữ giới hạnh.

Sự sỉ nhục làm cho một người chuẩn bị hành động xấu ác muốn co lại, né tránh nghiệp ác, vì người đó không muốn bị lương tâm cắn rứt, lương tâm bị dính dơ, bị ô nhiễm bởi những hành động xấu ác.

Nỗi sợ sệt cũng giúp 1 người ngừng lại hành động xấu ác, vì người ấy lo sợ đến hậu quả, đến tương lai, đến nghiệp báo.

Nếu không có những bản chất sợ sệt hay sĩ nhục này, chắc chắn không thể có việc giữ gìn giới hạnh nào hết. Riêng bản chất có lương tâm là sự sĩ nhục và sợ sệt là bản chất phân biệt giữa con người và loài vật, ngay cả vào thời kỳ con người còn rất sơ khai, sống bầy đàn. Vì vậy, “hiri” và “ottappa”được biết đến là 2 pháp che chở thế gian (Lokapala Dhamma).

(2) Lòng Tin (saddha) là lòng tin vào Quy Luật của Nghiệp - chẳng hạn như quả tốt có được là do nghiệp tốt thực hiện việc giữ gìn giới hạnh đạo đức, trong khi đó hành động xấu, vi phạm giới hạnh đạo đức sẽ mang lại đau khổ. Lòng Tin vững chắc sẽ giúp tẩy rửa tâm khỏi những tà niệm, những ô nhiễm và bất tịnh chính là động cơ vi phạm những giới hạnh đạo đức.

Việc tuân giữ theo năm giới hạnh cơ bản này không nên được hiểu như là việc tuân chỉ theo những điều luật từ bên ngoài, nhưng cần phải hiểu biết, có ý thức rõ ràng đây là một quá trình tu tập, rèn luyện thân tâm một cách tự giác thông qua sự hiểu biết, trí tuệ (panna) về nguyên nhân, ý nghĩa và quy luật nhân quả của việc tuân giữ giới hạnh.

Khi chúng ta đã có trí tuệ hiểu biết cái gì là đúng, cái gì là sai, cái gì là hợp với đạo đức, luân lý và cái gì là vô đạo đức, trái với luân lý, thì chúng ta sẽ chọn được cách để luôn luôn đi đến thực hiện, theo đuổi những hành động đúng đắn, hợp đạo đức, luân lý; tránh xa những hành động ngược lại; tức là đã tạo nghiệp tốt, thiện lành cho ngay cuộc sống này và kiếp sống tương lai.

(3) Chánh Niệm (sati) là sự để ý chú tâm, chú ý đối với những quá trình thân và tâm của chúng ta. Với chánh niệm, một người có thể kiểm tra những cảm giác nào, những trạng thái nào của tâm đang hướng mình thực hiện những hành động nào đó và những ý nghĩ nào đang là động lực, xui khiến, là tâm ý, tạo tác. Một người luôn chánh niệm, tỉnh giác với tất cả suy nghĩ, cảm giác, trạng thái tâm của mình, luôn luôn giữ gìn tất cả những giới hạnh để tránh làm khởi sinh những tâm hành tạo nghiêp bất thiện, và vì thế, phát triển những tâm hành tạo nghiệp thiện.

(4) Nỗ lực (viriya) ở đây có nghĩa là Chánh Tinh Tấn, những sự nỗ lực đúng đắn, đó là cách dùng nỗ lực hay dụng công để hướng tâm ra khỏi những trạng thái bất thiện có thể gây ra những hành động bất thiện. Chánh Tinh Tấn sẽ trở nên mạnh mẽ nếu được dựa vào nền tảng của việc chánh niệm và chánh kiến. Khi đã có cách nhìn đúng đắn và suy niệm đúng đắn về một vấn đề, thì một người càng siêng năng, nỗ lực nhiều hơn đê tu tập giữ gìn giới hạnh.

(5) Yếu tố cuối cùng là Lòng Kiên Nhẫn, Nhẫn Nhục (khanti), có nghĩa là lòng Vô-sân. Bản chất nhẫn nhục này giúp một người có thể chịu đựng được những lời sĩ nhục, những lời vu khống, những oan trái. Người đó không bị làm giận, không nổi giận, thù hằn hay trả thù, và như vậy người đó đã tiêu trừ được những ô nhiễm trong tâm, đó là ThamSân, 2 căn bất thiện chính, là nguyên nhân, nguồn gốc gây ra tất cả những hành động vi phạm giới luật đạo đức.




XII
Những Hệ Quả Của Việc Vi Phạm
và Gìn Giữ Năm Giới Hạnh Đạo Đức



Theo “Bài thuyết Giảng về Những Hệ Quả Của Những Hành Động Xấu Ác”, Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara iv, 247), thì việc "sống vi phạm giới hạnh đạo đức" nếu theo đuổi, thực hành, thành tựu, tăng thêm, thì sẽ tạo nghiệp quả xấu dữ tái sinh vào cảnh giới Địa Ngục, Súc Sinh, Ngạ Quỷ. 

Ngay cả nếu có may mắn sau này tái sinh lại làm người thì những nghiệp quả tối thiểu sau đây là không tránh khỏi:

(a) Sát sinh thì dẫn đến chết yểu, đoản mạng.

(b) Ăn cắp thì dẫn đến bị mất mát của cải tài sản.

(c) Tà dâm, ngoại tình dẫn đến bị thù địch và căm ghét.

(d) Nói dối nói sai sự thật dẫn đến bị kết tội oan uổng, bị hàm oan.

(e) Uống rượu hay dùng chất độc hại dẫn đến bị suốt đời điên dại, mất trí.

Ngược lại, việc tuân giữ Năm Giới Hạnh đạo đức dẫn đến tích lũy nhiều Nghiệp thiện (kusala kamma), cuối cùng được tái sinh vào những cõi phúc lành như cõi người hay cõi của những thiên thần. 

Nếu có tái sinh làm người, thì sẽ thọ hưởng được những nghiệp quả tốt như sau:

(a) Không sát sinh sẽ dẫn đến được sống lâu, trường thọ.

(b) Không ăn cắp sẽ dẫn đến giàu có, sung túc.

(c) Không tà dâm, ngoại tình sẽ dẫn đến được nổi tiếng, nhiều người biết đến.

(d) Không nói dối, không nói sai sự thật sẽ dẫn đến được uy tín tốt, danh tiếng tốt.

(e) Không uống rượu, không dùng chất độc hại sẽ dẫn đến được thông minh, chánh niệm và trí tuệ.

Trong Kinh “Đại Bát Niết-Bàn” (Mahaparinibbana sutta), Đức Phật đã giảng dạy cho những người dân làng Pataligama về năm điều Phúc Lành có được bởi những người biết tuân giữ "Năm Giới Hạnh" về Đạo Đức và tích lũy Đức Hạnh. Đó là:

(1) Người đó sẽ có được nhiều tài sản kết quả của tính siêng năng.

(2) Người đó sẽ có được uy tín và danh tiếng tốt.

(3) Người đó sẽ tiếp cận và gia nhập vào hạng những thánh nhân, Bà-la-môn, chủ gia và tu sĩ một cách hoàn toàn tự tin, không hề sợ sệt hay do dự.

(4) Người đó sống trọn vẹn tuổi thọ kiếp sống và chết vững tâm, tự tại.

(5) Sau khi chết người đó được tái sinh vào những cảnh giới Phúc Lành như cõi người hay cõi những thiên thần và Trời.




XIII
Sách và Tài Liệu Tham Khảo



1. “Atthasalini – The Expositor” (Chú Giải Bộ Pháp Tụ), bản dịch của Pe Maung Tin. Hội Kinh Diển Pali (PTS), London.

2. “The Five Nikayas-Discourses of the Buddha. An Anthology Book One” (Năm Kinh Bộ Nikaya – Những Bài Thuyết Giảng Của Đức Phật. Tuyển Tập Một), Bản dịch của Ban Biên Tập Pháp Quang (Editors of the Light of the Dhamma), Cục Tôn Giáo, Miến Điện.

3. “Taking the Precepts” (Tuân Giữ Giới Hạnh), tác giả ngài Bhikkhu Bodhi. Số xuất bản “The Wheel Publication No. 282/284”, Hội Ấn Bản Phật Giáo (Buddhist Publication Society), Tích Lan.

4. “Vinaya Texts” (Luật Tạng), Bản dịch từ tiếng Pali của Tiến sĩ T. W. Rhys Davids & Herman Oldenberg. Phần II, xuất bản bởi “Hội Thánh Thư Phương Đông” (Sacred Books of the East), biên tập bởi F. Max Muller. Nxb. Motilal Barnarsidass Publishers, Delhi.

[1] Những nước có nhiều người uống rượu nhiều và thường xuyên nhất riêng ở "châu Á" là Nam và Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và Việt Nam.

Theo thống kê ngày 25/11/2011 của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO), Nam Triều Tiên tức Hàn Quốc đã ‘thiết lập’ một kỷ lục, đất nước này uống rượu nhiều nhất châu Á. Theo Tổng Công ty Bảo hiểm Y tế quốc gia của họ, khoảng 182.000 người Hàn Quốc trên khắp đất nước đang được điều trị bệnh nghiện rượu. Tổng số người bị bệnh bởi chứng nghiện rượu theo ước tính không chính chức là khoảng hơn 2 triệu người đối với quốc gia bé nhỏ này.

Dĩ nhiên, với những con số nghiện rượu đã mắc bệnh và những số hiện vẫn đang uống rượu nhiều nhất châu Á, thì con số tệ nạn và vi phạm giới hạnh đạo đức thì không thể nào ước tính được, vì việc phạm giới hạnh từ "thân, miệng, ý" do rượu gây ra là khó tránh khỏi và rất khó thống kê, vì phần lớn cũng xảy ra trong khuôn khổ gia đình, cơ quan và những nơi mà dân tộc này di cư đến.


Trích từ cuốn GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC do cư sĩ LÊ KIM KHA
dịch từ cuốn BUDDHISM COURSE của CHAN KHOON SAN














Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.