Chuyển đến nội dung chính

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC - Phần XII - MƯỜI CĂN BẢN CỦA HÀNH ĐỘNG CÔNG ĐỨC - PHẦN HAI: NHÓM GIỚI HẠNH

Phần XII
MƯỜI CĂN BẢN CỦA
HÀNH ĐỘNG CÔNG ĐỨC

PHẦN HAI: NHÓM GIỚI HẠNH (SILA)

Phần XII - MƯỜI CĂN BẢN CỦA HÀNH ĐỘNG CÔNG ĐỨC - PHẦN HAI: NHÓM GIỚI HẠNH - GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC - Đạo Phật Nguyên Thủy


NỘI DUNG

1. Định Nghĩa Về Giới Hạnh (Sila)
2. Tính Chất, Chức Năng, Sự Thể Hiện và Nguyên Nhân Kề Cận Của Đức Hạnh
3. Giới Hạnh Đối Với Phật Tử Tại Gia
4. Năm Giới Hạnh và Những Giới Hạnh Của Bát Chánh Đạo
5. Tám Giới Hạnh
6. Mười Giới Hạnh
7. Những Phẩm Cấp và Những Loại Giới Hạnh
8. Những Ích Lợi Của Giới Hạnh Đạo Đức
9. Sự Tôn Kính (Apacayana)
10. Sự Lễ Phép và Phụng Sự Người Khác (Veyyavacca)
11. Sách và Tài Liệu Tham Khảo



I
Định Nghĩa Giới Hạnh Đạo Đức (Sila)



Giới hạnh đạo đức (Sila) là nền tảng của tất cả mọi hành động công đức. Điều này là do khi hành vi cố ý hay ý hành làm việc gì mà không có đức hạnh thì sẽ thiếu đi những yếu tố Không Tham, Không Sân, Không Si, là 3 căn gốc cần thiết để tạo nên công đức. 

Ngay cả hành động bố thí, nếu cả hai người cho và người nhận đều thiếu đức hạnh, thì kết quả sẽ chẳng được lợi ích gì nhiều. Đức Hạnh hay đạo đức được định nghĩa như sau:

(1) Đức Hạnh về Ý Hành, về Kiêng Cữ và về Thực Hiện

Theo như Bát Chánh Đạo, có 3 phần tạo nên những chuẩn mực về Đức Hạnh, đó là:

 Chánh Nghiệp, là hành động đúng đắn, kiêng cữ những hành động sai trái như sát sinh, ăn cắp, tà dâm.

 Chánh Ngữ, là lời nói đúng đắn, kiêng cữ những lời nói sai trái, tà ngôn, tà ngữ, như là không nói dối, không nói lời vu khống, không nói lời lăng mạ, sỉ nhục, không nói chuyện tầm phào, vô ích.

 Chánh Mạng, là nghề nghiệp, công việc làm ăn chân chính đúng đắn; kiêng cữ những công việc, nghề nghiệp sai trái, thất đức, trái đạo lý, như là không buôn bán vũ khí giết chóc, không buôn bán thịt động vật, rượu hay những chất độc hại, thuốc chất độc hay làm bất cứ nghề nghiệp, công việc gì mà phải dùng những hành động sai trái, lời ăn tiếng nói sai trái.

Ba (3) yếu tố tinh thần Chánh Nghiệp, Chánh Ngữ, Chánh Mạng được gọi là Ba Đức Hạnh về Kiêng Cữ. Những tâm ý, ý định hay ý hành đi theo thì được gọi là Đức Hạnh về Ý Hành, tức Giới Hạnh về tâm ý trong hành vi. Ý hành giúp cho một người thực hiện bổn phận đối với những người lớn tuổi, những người thầy bằng cách Tôn Kính và Phục vụ hay Phụng sự, thì được gọi là Đức Hạnh về Thực Hành.

(2) Đức Hạnh Không Tham, Không Sân, Không Si

 Lòng Tham khiến con người muốn có được thêm nhiều tài sản, khoái lạc, muốn chiếm hữu thêm nhiều. Khi một người dẹp bỏ tâm tham dục bằng nỗ lực tinh tấn, thì sẽ khởi sinh ý hành dẹp bỏkhông tham hay vô tham. Những yếu tố này được gọi là Đức Hạnh.

 Sân hận, thù ghét khiến con người muốn hãm hại người khác, làm khởi sinh ra những tư tưởng sai trái hay ác ý. Khi một người dẹp bỏ những tâm sân hận bằng nỗ lực tinh tấn, thì sẽ khởi sinh ý hành dẹp bỏkhông sân hay vô sân. Những yếu tố này được gọi là Đức Hạnh.

 Si mê, mù quáng khiến con người tin rằng có một linh hồn bất diệt, thường hằng, hoặc không tin vào Quy Luật về Nghiệp (Kamma), làm khởi sinh những tư tưởng sai lầm, hay tà kiến. Khi một người dẹp bỏ những niềm tin sai lạc đó bằng nỗ lực tinh tấn, thì sẽ khởi sinh ý hành dẹp bỏkhông si hay vô si. Những yếu tố này được gọi là Đức Hạnh.

=> Những loại Đức Hạnh được mô tả ở (1) và (2) trên đây thì được áp dụng, thực hành và tu tập bởi cả Tăng, Ni và những Phật tử tại gia. Ngoài ra, những Tăng Ni phải tuân giữ Đức Hạnh về Kiềm Chế để ngăn không cho khởi sinh những ô nhiễm và tránh xa việc vi phạm giới hạnh.

(3) Đức Hạnh về Kiềm Chế (được thực hành bởi những Tăng, Ni xuất gia)

Có năm (5) loại Đức Hạnh kiềm chế mà những Tăng, Ni phải thường xuyên tuân giữ:

(1) Sự Kiềm Chế bằng Giới Luật Tỳ Kheo (Patimokkha), hay 227 Giới Luật Cơ bảnđối với Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni.

(2) Sự Kiềm Chế bằng Chánh Niệm, để phòng hộ sáu cửa giác quan. Chế ngự giác quan.

(3) Sự Kiềm Chế bằng Trí Tuệ, để phòng hộ tâm, bằng trí tuệ nhìn thấu suốt hay trí tuệ minh sát do hành thiền minh sát mang lại.

(4) Sự Kiềm Chế bằng Kiên Nhẫn, bằng sự nhẫn nhục chịu đựng, đặc biệt trong đối mặt với những âu lo và phiền não hàng ngày, như nóng bức, lạnh giá, ruồi, muỗi, côn trùng, hoặc những điều kiện, hoàn cảnh khó chịu khác.

(5) Sự Kiềm Chế bằng Năng Lực Tinh Tấn, cố gắng né tránh mọi công việc, hành động sai trái, những điều bị cấm bởi Giới Luật.




II
Tính Chất, Chức Năng, Sự Thể Hiện
và Nguyên Nhân Cận Kề Của Giới Hạnh



Theo các luận giảng:

 Đức Hạnh hay Giới Hạnh[1] có tính chấtgiàn xếp và giới hạn (silana) những hành động của thân và lời nói của một người. Một người tuân giữ giới hạnh luôn luôn quan sát rất chặt chẽ và cẩn thận những hành động của thân và lời nói của mình, để hướng những hành động đó xảy ra một cách đúng đắn dưới sự kiểm soát của mình. Một người thiếu Đức Hạnh hay không tuân giữ giới hạnh thì những hành động, lời nói cứ xảy ra một cách tùy tiện, không có kiểm soát, không cần biết đúng sai. 

Đức Hạnh hay Giới Hạnh đạo đức có tính chất nâng đỡ, duy trì như là một căn bản, nền tảng cho mọi hành động công đức, bởi vì không thể nào có một hành động công đức nào mà không dựa vào đức hạnh để viên thành hết.

 Chức năng của đức hạnh hay giới hạnh gồm hai phần, một công đôi việc: (1) ngăn ngừa, phòng hộ một người để không làm những hành động, lời nói sai trái, vô đạo đức, (2) giúp một người có được những phẩm chất cao đẹp, đức hạnh, đáng khen.

 Đức Hạnh hay Giới Hạnh được biểu hiện, thể hiện hay bộc lộ bằng sự thanh tịnh, sự trong sạch trong hành động, trong lời nói và trong ý hành (tâm hành).

 Nguyên nhân cận kề của việc giữ Giới Hạnh chính là sự xấu hổ về mặt đạo đức (hiri) và sự sợ hãi về mặt đạo đức (ottappa) khi làm những hành động trái đạo đức. Mặc dù nghe học giáo pháp (Dhamma) sẽ làm khởi sinh đức hạnh nhưng điều đó chỉ là nguyên nhân ban đầu, nguyên nhân từ xa. Chỉ có sự xấu hổ, sự sợ hãi là 2 nguyên nhân trực diện liên tục, thì việc giữ giới mới được ý thức và duy trì.

Sự xấu hổ về mặt đạo đức khởi sinh từ bên trongsự sợ hãi mặt đạo đức thì khởi sinh từ bên ngoài. Những người thường được gọi là người tốt, người có lòng trắc ẩn thường xuyên tự nguyện làm những việc tốt, phúc đức vì tự mình cảm thấy xấu hổ nếu không làm, chứ không phải từ bên ngoài bị thúc ép phải làm. Tuy vậy, họ cũng luôn luôn làm việc đúng đạo lý, vì những lý do sợ hãi mọi người nhìn thấy, mọi người chê trách nếu không làm, hoặc sợ quy luật nghiệp báo và quả báo từ bên ngoài đưa đến khi một hành động đạo lý đã không được thực hiện.

Giống như có một thanh sắt, một đầu bị dính chất dơ bẩn, gớm ghiếc, một đầu thì đang bị đun đỏ. Người không dám chạm vào đầu dơ bẩn vì cảm thấy bẩn thỉu, còn không dám chạm vào đầu lửa đỏ kia là sợ bị cháy tay. Sự xấu hổ, ngượng nghịu giống như trường hợp thứ nhất và sự sợ hãi thì giống trường hợp thứ hai vậy.




III
Giới Hạnh Đối Với 
Những Phật Tử Tại Gia



Đối với những Phật tử tại gia, giới hạnh cơ bản là việc tuân giữ Năm Giới. Năm Giới Hạnh này là điều kiện tối cần thiết, bởi vì nếu không giữ giới, thì những hành động sát sinh, ăn cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu hay dùng những chất độc hại… đã là trái đạo đức, và chắc chắn dẫn con người kiếp sau tái sinh vào những cảnh giới thấp hèn, đau khổ.

Nhóm Năm Giới Hạnh này bao gồm Chánh Nghiệp, Chánh Ngữ và Chánh Mạng tạo thành một khuôn khổ Tám (8) Giới Hạnh, trong đó lấy giới hạnh Chánh Mạng làm giới thứ tám, tức là thêm 3 điều nữa vào trong Năm Giới. Giới Hạnh Tám Giới (hay Bát Giới) này, theo con đường Bát Chánh Đạo, được gọi là Chánh Mạng Giới (Ajivatthamaka Sila), bao gồm các giới:

1. Không sát sinh

2. Không ăn cắp

3. Không tà dâm

4. Không nói dối

5. Không nói lời vu khống, hãm hại

6. Không nói lời lăng mạ, không chửi bới, sỉ nhục

7. Không nói chuyện tầm phào, vô nghĩa, vô ích; Và

8. Không làm nghề nghiệp, công việc bất chính, sai trái (tức giữ chánh Mạng).

Đây là những giới hạnh cần phải được thực hành ở giai đoạn ban đầu của Bát Chánh Đạo.

Khi Đức Phật xuất hiện trên trái đất này, loài người còn đang sống trong màn đêm của Tham, Sân, Si và không hiểu biết về giá trị về giới hạnh nào. Để bắt đầu khắc chữ “Giới Hạnh đạo đức”, Đức Phật đã dạy về việc kiêng cữ, tránh làm những việc sai trái, tránh nói những lời nói sai trái và tránh những công việc, nghề nghiệp sai trái, không chân chính trong lúc tâm của loài người còn quá thô thiển và phàm tục. 

Sau đó, mọi người bắt đầu tránh được một số những điều sai trái đó, Đức Phật mới bắt đầu giảng dạy về "Năm Giới", rồi "Tám Giới" như chúng ta vừa nói trên, để làm cho tâm trí con người thêm trong sạch thêm một bước nữa.




IV
Năm Giới Hạnh và Những Giới Hạnh
Trong Bát Chánh Đạo



Nếu mới nhìn, thì Năm Giới có vẻ “ít” hơn, là “nhỏ hơn” hay là nằm trong Những Giới Hạnh của Bát Chánh Đạo, vì trong Bát Chánh Đạo có thể thêm những giới cấm khác về vấn đề lời nói (chánh ngữ), trong khi đó trong Năm Giới chỉ có một Giới cấm về lời nói đó là “không nói dối” dùng cho giới Chánh Ngữ. 

Tuy nhiên trong 4 loại “tà ngữ”, thì sự “nói dối” là nghiêm trọng nhất, “nói dối” là nền tảng dẫn đến việc vi phạm những giới cấm về ‘chánh ngữ” khác. Nói ngắn gọn, khi một người đã nói vu khống, nói lăng mạ, nói chuyện tầm phào… thì cũng thuộc dạng nói dối, vì 3 kiểu nói đó cũng không đúng sự thật, không chính xác với sự thật. Đức Phật cho rằng, một người nếu giữ đúng giới hạnh “không nói dối” thì thường có khả năng giữ được cả giới hạnh khác về Chánh Ngữ.

Còn vấn đề là tại sao Chánh Mạng không có mặt trong nhóm Năm Giới? câu trả lời là nằm ở chỗ nếu ai đã thực hành tuân giữ Năm Giới, thì đã không còn vấn đề về việc giữ giới Chánh Mạng. Vì đã giữ gìn năm giới, thì vô tình hay mặc nhiên người đó đã sống hay làm những công việc đúng theo giới hạnh trong “chánh mạng”, vì người đó đã không làm những việc sát sinh, không ăn cắp, không tà dâm, không nói dối…trong nghề nghiệp và trong việc mưu sinh của mình rồi. Nếu một người tuân thủ ‘chính xác’ theo Năm Giới, thì tự động họ đã tránh xa những việc làm, nghề nghiệp sai trái! Nên không có vấn đề là năm Giới là nhỏ bé hay thấp kém về mức độ hơn là những giới hạnh trong Bát Chánh Đạo.

Nói cách khác, việc tuân thủ, thực hành Bát Chánh Đạo là cần thiết cho những Phật tử tại gia có mức độ đức hạnh thấp, chưa hiểu đạo lý, để giúp cho họ tránh khỏi những thói quen thấp hèn, vô đạo đức.

Nhưng đối với Phật tử tại gia nhiều đức hạnh, đã tuân giữ Năm Giới cẩn thận, đã quy y nương tựa vào Tam Bảo (và Năm Giới), thì không còn cần thiết đặc biệt để họ phải tuân giữ theo Những Giới Hạnh Trong Bát Chánh Đạo. Tương tự như trong ví dụ như một con thú dữ cần phải được giam trong chuồng để nó khỏi gây ra tai nạn, trong khi đó một con thú đã thuần chủng, biết vâng theo lời, thì được thả đi rong xung quanh.




V
Tám Giới



Tám Giới Hạnh trong tiếng Pali là “Atthanga Uposatha Sila”, trong đó “Atthanga” có nghĩa là Tám, “Uposatha” là lễ Bố-tát, trong dịp lễ này những Phật tử thường tuân thủ Tám Giới Hạnh bằng việc trai giới rất nghiêm túc. Có thể dịch là ngày lễ “Trai Giới” hay “Bát Quan Trai Giới” (HV).

Ngày nay, những Phật tử thường tuân thủ 4 ngày Trai Giới (Uposatha) trong một tháng, tức bốn ngày chay tịnh, đó là: Ngày Mồng 1, Ngày Mồng 8, Ngày Rằm 15 và Ngày 23.

(Ngày Mồng 8 AL là ngày thứ 8 trăng khuyết trước Rằm, và Ngày 23 AL là ngày thứ 8 trăng khuyết sau Rằm -ND).

Ở những nước Phật giáo, những Phật tử đức hạnh thì tự chọn nơi nào thuận tiện để tu tập Tám Giới, thăm viếng Chùa, tu viện để thực hiện bố thí (dana), nghe học Giáo Pháp (Dhamma) và tham gia vào những lớp Thiền trong một ngày lễ Trai Giới “Uposatha”. Tám giới hạnh cần phải tuân giữ trong những ngày đó là:

(1) Không sát sanh,

(2) Không ăn cắp,

(3) Không nói dối; và

(4) Không uống rượu hay dùng chất độc hại.

Bốn Giới hạnh đầu này là những sự kiêng cữ, được gọi là “Những Giới Phải Kiêng Cữ” (Varitta Sila).

(5) Không dâm dục (tức cũng không quan hệ tình dục, ngay cả là vợ chồng, chính dâm),

(6) Không ăn sau giờ Ngọ,

(7) Không ngồi ghế cao sang, nằm giường êm đẹp.

(8) Không nhảy múa, ca hát, không trình diễn này nọ, không trang điểm, đeo vòng hoa, trang sức, không thoa dầu thơm… để làm đẹp.

- Theo luận giảng: Bốn giới đầu được gọi là “Giới Phải Kiêng Cữ” (Varitta Sila) bởi vì nếu vi phạm những giới này hiển nhiên sẽ dẫn đến tái sinh vào những cảnh giới thấp xấu, đau khổ.

- Tuy nhiên, bốn giới sau nếu vi phạm thì có thể, hoặc có thể không, dẫn đến tái sinh ở những cảnh giới thấp xấu, đau khổ, vì điều đó còn tùy thuộc vào việc phạm giới có đi kèm hay không đi kèm với những quan điểm sai trái hay tà kiến. Những Phật tử Thánh thiện (Ariyas) như bà Visakha và ông Cấp-Cô-Độc (Anathapindika), là những người chưa diệt sạch Tham dục, vẫn còn quan hệ tình dục, chính dâm với chồng, vợ của mình, ăn sau giờ ngọ, nhảy múa, đàn ca, xem nghe múa nhạc, trang sức làm đẹp, ngủ trên giường êm ấm xa hoa, nhưng họ những hành động không giữ 4 giới sau này không đi kèm với những quan điểm sai trái hay tà kiến, nên họ không bị tái sinh vào những cõi xấu ác, đau khổ.

- Thái độ tinh thần của những Phật tử Thánh thiện (Ariya) đối với những khoái lạc giác quan thì khác với thái độ của những kẻ phàm phu, tục tử. Như Kinh Điển có ví dụ so sánh rằng, những Bà-la-môn thanh tịnh bị voi dữ đuổi chạy thì thường không nhảy vào những chỗ ẩn núp dơ bẩn như hầm phân. Cũng như vậy, đối với những khoái lạc trần tục những thánh Phật tử chưa diệt sạch những ô nhiễm này, thì “trải qua” chúng mà không có những tà kiến trong tâm. Ngược lại, những kẻ phàm phu tục tử thì ngập đầu vào khoái lạc với những tư tưởng, quan điểm sai lạc khác, (ví dụ như chủ nghĩa theo dục vọng khoái lạc giác quan, chủ nghĩa cho rằng cứ hưởng thú vui càng nhiều càng tốt, bằng mọi giá, vì chẳng có kiếp sau hay quả báo nào hết ...).

- Khi một người đã quy y Tam bảo và tuân giữ theo Năm Giới Hạnh, thì người đó đã trở thành một đệ tử đức hạnh của Đức Phật. Nếu người đó cố gắng tuân giữ Tám Giới, thì có nghĩa người đó muốn thực hành việc giữ giới tâm linh ở mức độ cao hơn. Trong ý nghĩa này, bốn (4) giới sau (của Tám Giới) là những giới tự nguyện và được gọi là Những Giới Cần Thực Hành (Caritta Sila).

Đối với những Tỳ kheo hay Sa-di, Đức Phật đã nghiêm cấm tất cả, hay tất cả các giới đều là những Giới Phải Kiêng Cữ, Phải Tránh (Varitta Sila).




VI
Mười Giới



Mười Giới” là sự mở rộng ra từ “Tám Giới” vừa nói trên, trong đó giới thứ (8) được phân chia ra thành 2 giới riêng biệt, (8) và (9), khác nhau. Đó là:

(8) Không nhảy múa, ca hát, không trình diễn này nọ.

(9) Không trang điểm, đeo vòng hoa, trang sức, không thoa dầu thơm… để làm đẹp.

Vậy đã có 9 giới, và bây giờ thêm một giới nữa đó là:

(10) Kiêng cữ, không nhận vàng bạc (Jatarupa rajata patiggahana).

Như vậy, tổng cộng là “Mười Giới”.

Theo Luận Giảng Kinh Tiểu Tụng (Khuddakapath): 

“Bạc là những đồng tiền kahapana, hoặc có thể là đồng tiền xu kim loại masaka, hoặc có thể là đồng tiền gỗ masaka, hoặc đồng tiền bằng đất sét masaka, và tương tự, được dùng để trao đổi, mua bán thương mại. Trong bối cảnh hiện đại, nghĩa “vàng, bạc” là bao gồm cả “tiền mặt”.

=> “Mười Giới” là tiên quyết, là “Những Giới Phải Kiêng Cữ” (Varitta Sila) đối với Tỳ kheo và Sa-di.

Nhưng đối với Phật tử tại gia thì chỉ 4 giới đầu là bắt buộc phải kiêng cữ (Varitta Sila), còn 6 giới sau là “Những Giới Cần (nên) Thực Hành” (Caritta Sila).




VII
Những Phẩm Cấp và Những Loại Giới Hạnh



Cũng giống như những hành động công đức, Phẩm Cấp Giới Hạnh được quyết định bởi mức độ của Bốn (4) Yếu Tố Tiềm Năng (Iddhipadas), đó là:

Ước Muốn,

Nỗ Lực,

Tâm, Ý Chí, và

Kiến Thức Trạch Pháp.

Khi những yếu tố này yếu kém, trung bình hay mạnh mẽ, thì Đức Hạnh hay Giới Hạnh tương ứng sẽ là Thấp Kém, Trung Bình hoặc Ưu Việt.

(a) Giới Hạnh được thực hành vì danh là loại giới hạnh Thấp Kém.

(b) Giới Hạnh được thực hành vì mong muốn có được quả hay công quả tốt của một hành động công đức là giới hạnh Trung Bình.

(c) Giới Hạnh được thực hành để đạt được trạng thái cao thượng, thông qua sự hiểu biết là một người nên thực hành với tâm ý hay ý hành lành thiện là để đạt được sự thánh thiện cho tâm linh của mình, thì đó là giới hạnh Ưu Việt, cao thượng.

Giữa hai loại giới hạnh, Giới Hạnh Cần (nên) Thực Hành (Caritta Sila) chỉ có thể thực hiện được khi một người có đầy đủ lòng tin và sự nỗ lực.

Lòng tin là sự tin vào Quy Luật của Nghiệp (Kamma), chẳng hạn như Nghiệp quả tốt sẽ đi theo những nghiệp tốt do thực hành tốt việc giữ giới hạnh.

Nỗ lực có nghĩa là năng lực luôn luôn có để dùng vào việc thực hành giới hạnh, cùng với lòng tin. Đó gọi là Chánh Tinh Tấn.

Đối với Giới Hạnh (phải) Kiêng Cữ (Varitta Sila), Lòng Tin là yếu tố đã đủ giúp cho người ta tránh không làm những điều trái đạo đức, thất đức mà Đức Phật đã khuyến cấm.

Giới Hạnh hay Đức Hạnh được những Phật tử tại gia tuân giữ thì được gọi là Giới Hạnh Tại Gia (Gahattha Sila). Về điểm này, trong quyển Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi Magga) có ghi như sau:

“Năm Giới tuân giữ thường xuyên,
Mười Giới những khi có thể, và
Tám Giới vào ngày Trai Giới,
là giới hạnh mà những Phật tử tại gia tuân theo.”




VIII
Những Ích Lợi Của Giới Hạnh



Bằng cách kiêng cữ, không phạm vào những hành động, lời nói và nghề nghiệp không đúng đắn, một người có được phẩm hạnh tốt đẹp, “không có gì phải ân hận”, đó là một ích lợi của việc giữ giới hạnh. Một người tuân giữ giới hạnh thì luôn được những người xung quanh, bạn bè yêu mến và tôn trọng.

Sự “không ân hận” hay sự vô ngại sẽ dẫn đến niềm vui, niềm hoan hỉ (piti) và hạnh phúc (sukha), theo sau là sự tĩnh lặng (passadhi), là nguyên nhân cận kề để đạt đến Chánh Định (samadhi). Khi tâm đã được định, một người có thể thâm nhập thấu suốt vào bản chất đích thực của mọi sự vật “như nó là” (yathabhuta-nana) thông qua trí tuệ Minh Sát (vipassana) và chứng đạt được Trí Tuệ con đường Đạo và Thánh Quả (magga-phala nana). Vì vậy, Giới Hạnh có rất nhiều ích lợi, bắt đầu từ việc an tâm, không ân hận hay vô ngại cho đến lúc kết cục là Niết-bàn (Nibbana).

Đức Phật cũng đã đề cao đến năm (5) ích lợi có được khi một người tuân giữ Giới Hạnh và được xác lập trong Giới Hạnh, đó là:

(1) Có được nhiều vận may giàu có vì đã nỗ lực giữ giới.

(2) Có được thanh danh và nổi tiếng.

(3) Có thể tiếp cận hay bước vào những hàng thánh nhân, Bà-la-môn, gia chủ hay tu sĩ với một sự tự tin hoàn toàn, không sợ sệt hay do dự.

(4) Sống hết tuổi thọ của kiếp sống và chết một cách tự tại, không sợ hãi hay ăn năn, hối hận.

(5) Sau khi chết, được tái sinh trong một cảnh giới phúc lành của cõi người hay cõi trời.




IX
Sự Tôn Kính



Theo định nghĩa về Giới (Sila), sự tôn kính (apacayana) nằm trong Giới Hạnh Cần (nên) Thực Hành. Trong Chú Giải Bộ Pháp Tụ (Atthasalini), thì định nghĩa về sự tôn kính được ghi như sau:

“Sự tôn kính là một căn bản của hành động công đức nên được biết là hành động đến gặp một người lớn tuổi, mang bát và y cho người ấy, đảnh lễ người ấy và nhường chỉ lối đi cho người ấy”.

Cách giảng giải này hàm ý nói về một thái độ khiêm nhường, lễ phép, không cao ngạo, cùng thể hiện bằng những thái độ thân tình, lời nói và hành động cung kính với những người lớn tuổi.

Không phải chỉ vậy, mà phải thật sự tôn kính người lớn tuổi ở trong lòng, xưng hô đúng mực phép tắc, dùng lời lẽ lễ phép, cúi chào họ, đứng dậy khi họ bước vào và nhường chỗ ngồi cho họ, phục vụ họ trước tiên và đối xử họ như những bậc đáng tôn kính nhất.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta I, 177), Đức Phật đã giảng dạy cặn kẽ hơn về vấn đề đức hạnh này, khi Người hàng phục tính cao ngạo của một Bà-la-môn ngạo mạng ở Savatthi (thành Xá Vệ). Người đàn ông trẻ này không cung kính cha mẹ, thầy giáo và cả người anh cả của mình. Khi Đức Phật đang thuyết giảng giáo pháp cho một hội chúng, người này tỏ ra rất cao ngạo, và Đức Phật đã đọc được những ý nghĩ của anh ta, lúc đó, Đức Phật đọc một câu kệ, chỉ cho Bà-la-môn tên ‘Cao Ngạo’ này thấy được tâm của anh ta giống như một quyển sách đang được mở ra.

Ngay lúc bị người khác đọc được tâm mình, anh ta trở nên khiêm nhường và trước sự ngạc nhiên của đám đông, anh ta cuối xuống quỳ lạy Đức Phật. Sau khi Đức Phật yêu cầu anh ta quay về chỗ ngồi của mình, anh ta bèn đặt những câu hỏi như sau:

“Đối với ai một người phải tỏ ra lễ phép? Ai thì một người phải tỏ ra tôn kính? Ai thì một người phải nhường bước và tôn trọng? Phải tôn thờ ai là tốt?

Đức Phật đã trả lời những câu hỏi này như sau:

“Đối với mẹcha mình, một người phải lễ phép; đối với anh trai cả và thứ tư là đối với người thầy. Những người này, một người phải tôn kính. Đối với những người này, một người phải nhường bước và tôn trọng. Tôn thờ họ là điều tốt. Những bậc A-la-hán, hết ô nhiễm, điềm tĩnh, đã hoàn thành những việc cần phải làm, những bậc vô đẳng hiền hậu, miễn nhiễm và biết phải trái. Hãy dập tắt tính cao ngạo của mình và tôn kính họ”.

(a) Sự Tôn Kính Giữa Những Người Phật Tử Tại Gia

Giữa những người trong họ hàng Phật tử tại gia, thì bậc Cha, Mẹ là được tôn kính đầu tiên, vì họ có công sinh đẻ, đưa chúng ta vào cuộc đời, nuôi chúng ta lớn lên và luôn luôn cầu ước, mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc và thành đạt. Trong Kinh Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara i, 62), Đức Phật đã nói rằng, nếu một người đặt mẹ lên một vai và cha lên một vai để hầu hạ 100 năm, thì cũng không bao giờ trả hết ơn cha mẹ được. Nhưng nếu một người khuyến khích, tạo điều kiện giúp cha mẹ thực hành bố thígiới hạnhthiết lập lòng tin vào Tam Bảo và có được sự hiểu biết, trí tuệ, thì người đó có thể đền đáp được công ơn cha mẹ.

Trong Mười vấn Đề Của Chánh Tri Kiến, sự hiểu biết về việc: “Có nghiệp quả trong hành động hay Nghiệp của một người đối với cha mẹ” góp phần tạo nên Chánh Tri Kiến. Vì vậy, mọi người cần luôn luôn tâm niệm sự tôn kính cha mẹ trong mọi lời nói, ý nghĩ và hành động của mình.

Anh, Chị, Họ Hàng cũng là những người xứng đáng được kính trọng, bởi vì họ là những người cùng chăm lo, bảo vệ và giúp đỡ chúng ta cùng với cha mẹ hay những khi cha mẹ bận rộn hay vắng mặt. Những người thầy, người cô dạy chúng ta cũng xứng đáng được tôn kính, bởi vì họ đã dạy cho chúng ta biết đọc, biết viết, dạy nghề nghiệp và khoa học cho chúng ta.

Ở những nước Phương Đông, việc kính trọng người lớn tuổi (kính lão đắc thọ) là cử chỉ thể hiện sự trưởng thành của một người. Bằng cách kính trọng người lớn tuổi, một người sẽ được nhiều ích lợi vì người lớn tuổi khi được kính trọng, thường bỏ công ra khuyên dạy, chỉ dẫn những kinh nghiệm của mình cho người trẻ, vì thông thường người lớn tuổi không chỉ dạy những kinh nghiệm cho những kẻ vô lễ và ít gần gũi với mình. Khi tôn trọng và giúp đỡ người lớn tuổi, một người sẽ được bốn ích lợi như là nghiệp quả sau: tuổi thọ càng cao, vẻ đẹp, sự sung sướngsức mạnh.

Đối với những Phật tử, sự tôn kính lớn lao nhất được dành cho Tam Bảo, đó là nơi nương tựa tối cao bao gồm Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Đoàn, vì đó là những đối tượng cao quý nhất, đáng tôn thờ nhất, nơi nương tựa cao quý nhất của một người (Xem thêm Chương Quy Y Tam Bảo). Vì lý do này, mà những thành viên hay thánh tăng trong Tăng Đoàn luôn được kính trọng bởi những Phật tử, khi gặp Tăng Ni những Phật tử luôn luôn đảnh lễ và cúi đầu xá lạy để biểu thị lòng tôn kính. Khi tôn kính và đảnh lễ Tăng, Ni, những Phật tử sẽ được ích lợi là buông bỏ, xả bỏ hết niềm cao ngạo hay tự mãn. Tăng Ni cũng luôn luôn vui mừng truyền dạy giáo pháp cho những Phật tử kính tăng, được xem là đối tượng (hay hành xử xứ) thích hợp (gocara) để Tăng Ni thực hiện những việc đối với chúng sinh.

(b) Lòng Kính Trọng Giữa Những Thành Viên Tăng Đoàn

Khi một người trở thành Tỳ kheo (Tăng, Ni), người đó đã rời bỏ cuộc sống gia đình và trở thành người xuất gia. Giáo Pháp và Giới Luật được xem như là người Cha, và người học trò được coi là người con. Người học trò phải tuân thủ theo những giới luật nghiêm ngặt đối với người thầy, và trong đó có việc tôn kínhphụng sự đã được quy định rõ trong Luật Tạng, nếu không thực hiện đúng có thể phạm tội dukkata (tác ác, những tội làm điều sai quấy).

Giới Luật cũng quy định rõ thái độ lễ phép của một Tỳ kheo nhỏ tuổi đối với Tỳ kheo lớn tuổi, phải xưng hô bằng “ngài”, “thầy” (Bhante), trong khi những Tỳ kheo lớn tuổi có thể gọi người nhỏ tuổi bằng “đạo hữu” hay “bạn” (Avuso). Một Tỳ kheo phải nhớ rõ ngày, giờ được thọ giới vào Tăng Đoàn để biết được tuổi hạ của mình mà biết cách xưng hô với những Tỳ kheo hay Tăng Ni khác.

Tương tự vậy, những Sa di cũng phải hết mực kính trọng những Tỳ kheo, Tăng Ni, cho dù những Tăng Ni có thể vừa mới thọ giới vào Tăng Đoàn. Bằng cách này, sự hòa hợp trong Tăng Đoàn luôn luôn được gìn giữ.

Thông thường, một Tỳ kheo không được phép làm người thầy để thọ giới cho một Tỳ kheo mới nếu người thầy Tỳ kheo không được hơn 10 tuổi Hạ và phải được biết là thông thuộc Kinh, Luật. Ở Miến Điện, những Tỳ kheo đã qua 10 tuổi hạ thì được gọi là “Sayadaw”, có nghĩa là “Sư’, “Thầy” được xưng hô một cách đáng kính.




X
Sự Lễ Phép và Phụng Sự



Tự Điển “Childers’ Pali Dictionary” dịch chữ “veyyacacca” là sự phục vụ, phụng sự của một người ở vị trí, vai vế thấp kém hơn đối với một người cao thượng hơn. Nó cũng hàm ý về thái độ lễ phép, nhún nhường có trong tâm, không còn cao ngạo, khi thực hiện việc phục vụ cho người khác. Quyển “Chú Giải Bộ Pháp Tụ” (Atthasalini) thì định nghĩa như sau:

“Phụng sự là căn bản của hành động công đức nên được biết trong những hành động qua đó chúng ta thực hiện bổn phận lớn và nhỏ đối với những bậc trưởng lão, chẳng hạn, như khi chúng ta tiếp nhận bình bát của một vị Tỳ Kheo mà chúng ta thấy vừa bước vào làng để khất thự và để đầy thức ăn, và mang dâng cho vị ấy, hoặc đi nhanh đến và tiếp nhận bình bát,…, khi nghe lời kêu gọi “Đến tiếp nhận bình bát của vị Tỳ kheo”.

(a) Sự Lễ Phép và Phụng Sự Giữa Những Phật Tử Tại Gia

Đối với những Phật tử tại gia, việc phục vụ hay phụng sự có nghĩa là phụng sự cha mẹ mình và những bậc trưởng lão và hoàn thành những công việc theo ý muốn của họ. Những dạng phụng sự khác bao gồm việc chăm sóc người bệnh, người già neo đơn, những người ở viện dưỡng lão, trại tế bần, lo lắng cho những nhu cầu của họ. Sự phụng sự lễ phép như việc chăm sóc người bệnh, người già yếu đã được Đức Phật đề cao. Những hành động lễ phép như làm ‘công quả’ đối với cộng đồng, chùa chiềng, đền tháp, như giúp quét dọn, lau chùi sạch sẽ ở Chùa, Tu Viện, nấu ăn, phục vụ thức ăn, rửa chén bát,… cũng là những sự phụng sự đầy công đức. Nghiệp quả tốt cho những hành động công đức này là sẽ được giúp đỡ khi cần, sẽ được toại nguyện mong ước của mình sau này và sẽ có người giúp đỡ, người giúp việc sau này giúp đỡ mình.

(b) Bổn Phận Phục Vụ Giữa Những Tỳ Kheo, Tăng Ni

Đối với những Tỳ kheo, một số bổn phận phải phục vụ cho thầy, sư của mình như là: giúp làm những việc họ cần, rửa bình bát giùm họ, chăm sóc y phục của họ, mời họ uống nước trong hay sau bữa ăn, chuẩn bị khăn nước cho thầy tắm, quét dọn, lau chùi thất của thầy sạch sẽ…

Phần mình, một người thầy phải tận tâm truyền dạy giáo pháp cho đệ tử, và cung cấp cho đệ tử của mình bình bát, y phục và những vật dụng mà đệ tử mình chưa có. Nếu học trò của mình bị bệnh, thì vị thầy phải chăm sóc cho học trò mình đến khi khỏe mạnh. Đó là những giới luật bắt buộc đối với những Tỳ kheo, trừ khi có những ngoại lệ mà người thầy đưa ra và miễn chấp cho học trò của mình, chẳng hạn như người học trò có tâm nguyện dành nhiều thời gian hơn cho việc hành thiền.




XI
Sách và Tài Liệu Tham Khảo



1. “The Expositor” (Chú Giải Bộ Pháp Tụ – “Atthasalini”), bản dịch của Pe Maung Tin, Hội Kinh Điển Pali (PTS), London.

2. “The Great Chronicles of Buddhas, Vol. 1, Part 1, Anudipani” (Đại Biên Niên Sử Các Vị Phật, Tập 1, Phần 1, Anudipani), tác giả Hòa Thượng Mingun Sayadaw Bhaddanta Vicittasarabhivamsa.

3. “Tự Điển Ngôn Ngữ Pali”, soạn giả R. C. Childers.

4. “The Mahavagga, Vinaya Texts” translated by T.W. Rhys Davids and Hermann Oldenberg, Part 1. Sacred Books of the East, Vol.13. (Bộ “Đại Phẩm, Luật Tạng”, bản dịch của Tiến Sĩ Rhys Davids và Hermann Oldenberg, Phần 1, Thánh Thư Phương Đông, Vol. 13).

[1] Ở đây, người dịch muốn dùng tùy lúc chữ “Giới Hạnh” hay ‘Đức Hạnh”, trong ý nghĩa giống nhau trong văn cảnh này. Thông thường, người có Đức Hạnh là người đã và luôn giữ Giới Hạnh. Khi đang không bàn về vấn đề những giới luật hay các giới cấm, thì dùng từ ‘Đức Hạnh”, vì đang bàn về ý nghĩa ‘đạo đức”.


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.