Chuyển đến nội dung chính

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC - Phần V - CHẾT VÀ TÁI SINH

Phần V
CHẾT VÀ TÁI SINH

Phần V - CHẾT VÀ TÁI SINH - GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC - Đạo Phật Nguyên Thủy


NỘI DUNG

1. Sự Khác Nhau Giữa Tái Sinh và Đầu Thai
2. Tái Sinh Diễn Ra Như Thế nào
3. Thức Kết Nối Lại hay Thức Tái Sinh.
4. Những Kiểu Chết
5. Những Đối Tượng Hiện Diện Trong Tâm Trước Lúc Chết
6. Năm Viễn Cảnh của Một Người Sắp Chết
7. Thức Đang Chết hay Thức Khi Chết
8. Những Kiểu (Tái) Sinh
9. Bốn Cõi Hiện Hữu hay Bốn Cảnh Giới Sống.
10. Sách và Tài Liệu Tham Khảo


I
Sự Khác Nhau Giữa Tái Sinh và Đầu Thai


Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong ý nghĩa ‘chuyển kiếp’ hay ‘đầu thai kiếp sau’ theo ý nghĩa có ‘linh hồn’ thường hằng dịch chuyển từ đời này qua đời khác, như là do Thượng Đế sắp đặt hoặc như là một linh hồn tối thượng hay một linh hồn phổ quát – đại ngã (Param-atma).

Phật giáo không tin vào bất kỳ dạng chuyển kiếp hay chuyển linh hồn nào. Không có gì thoát ra khỏi một thể xác và chui vào một thể xác khác. Mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra theo quy luật thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada). Mọi sự vật xảy ra, xuất hiện hay tồn tại đều do những sự vật khác trước đó tạo điều kiện mà có, rồi đến khi chúng xuất hiện chúng lại là điều kiện để sinh ra những sự vật khác.

Trong học thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada), Đức Phật đã giảng giải rằng Dục Vọng làm khởi sinh Dính Chấp, rồi do có Dính Chấp nên dẫn đến sự Trở Thành, Hiện Thành (hay là sự liên tục của quá trình sự sống bị tác động bởi Nghiệp) và cuối cùng dẫn đến sự Sinh ra. Dục Vọng của một người sắp chết hay đang chết cũng làm khởi sinh sự Dính Chấp và dẫn đến sự liên tục của quá trình sự sống là Trở Thành, Hiện Thành thông qua Nghiệp hay Nghiệp Hữu (Kammabhava), và cuối cùng tạo nên sự Sinh, mà ta hay gọi là Tái Sinh. Điều này tương đồng và trùng khớp với cách diễn tả của Diệu Đế Thứ Hai (Nguồn Gốc của sự Khổ) cho rằng chính Dục Vọng đã dẫn đến tạo thành một ‘thực thể’ sống hay một ‘con người’ mới được cấu tạo bằng năm Uẩn dính chấp chính là “Khổ”.

(Quá trình Sinh ra là theo trình tự theo thuyết Duyên Khởi là như vậy, Phật giáo không tin có một linh hồn thường hằng bất biến trong mỗi chúng ta hay mỗi chúng sinh, vì những tập hợp Uẩn cấu tạo nên thân và tâm chúng ta thì biến đổi liên tục, không ngừng, trong từng khoảnh khắc (sát-na), nên không thể có một linh hồn nào cố định không thay đổi. Và khi đã không có một linh hồn cố định, thì không có linh hồn nào chuyển kiếp hay 'đầu thai' vào trong một xác thân mới theo cách nghĩ của những tôn giáo theo thuyết linh hồn khác - ND)



II
Sự Tái Sinh Diễn ra Như Thế nào



Bắt đầu từ khái niệm một ‘con người’, Đức Phật đã dạy rằng “mầm” mống của cuộc sống được “gieo trồng” chỉ khi nào có đủ 3 điều kiện: Mẹ và Cha hợp duyên, đây là giai đoạn có mẹ (trứng chín) và một ‘Thực Thể’ hay “một con người chuẩn bị được sinh ra” đã có mặt, đã ‘hiện thành’, đã chết ở đâu đó, hay vừa kết thúc sự sống ở đâu đó. Chứ không nên hiểu theo nghĩa là ‘một con người hay một linh hồn đang chờ trứng và tinh trùng giao phối và rồi ‘chui’ vào đó để đầu thai”. 

Yếu tố người Cha chỉ cung cấp cho chúng ta vật chất vệ tinh trong quá trình tái sinh. Nhưng điều này không có nghĩa mọi loài chúng sinh đều cần phải có yếu tố cha mới sinh ra được, bởi vì có nhiều loài được sinh ra một cách tự nhiên, tùy theo Nghiệp.

“Chết”, theo đạo Phật, là một sự ngưng lại, sự chấm dứt của một đời sống “sinh-vật-lý” của một ‘cá thể’ chúng sinh. Sự chết diễn ra bằng việc chấm dứt giác quan sự sống (jivitindriya) hay còn gọi là mạng căn (HV), nhiệt và thức. Cái chết không phải là một sự hủy diệt hoàn toàn của một sự sống, mặc dù thời gian sống hay ‘mạng sống’ đã đến lúc chết, tuy nhiên nguồn lực đã “chạy” hay “duy trì” sự sống đó vẫn còn chứ không bị hủy diệt hay chấm dứt.

Khi cái “chết” đang xảy ra, một tiến trình Tâm mới được gọi là (tâm) Thức Tái Sinh (patisandhi citta, tiếng Anh: Rebirth Consciousness) được xúc tiến (duyên) bởi Nghiệp Tái Sinh (tiếng Anh: Reproductive Kamma) hay là Nghiệp Hữu (kamma-bhava), tức quá trình “Trở Thành”, cùng khởi sinh với 3 nhóm vật chất (sắc uẩn) do nghiệp tạo ra, cấu thành thân, giống và cơ sở tiếp xúc (chỗ dựa của Thức). Tất cả chúng làm điều kiện (duyên) làm khởi sinh những quá trình vật chất và tinh thần (danh và sắc) trong noãn trứng, bây giờ theo nghĩa truyền thống hay gọi là một ‘con người’ đã hiện diện trong bào thai. Thức Tái Sinh và 3 nhóm vật chất (sắc uẩn) do nghiệp tạo ra đó được gọi chung là: “con người sắp được sinh ra”. Danh từ này chỉ được dùng để diễn tả trong ngữ cảnh này khi không còn biết mượn danh từ khác xuất thế gian để giải thích tiến trình tâm và vật chất cấu tạo nên ‘thực thể’ sống này. Không nên hiểu lầm đó là một linh hồn thường hằng nào đó đang đợi chui vào bào thai hay tử cung để được tái sinh.



III
Thức Kết Nối Lại hay Thức Tái Sinh



Theo giáo lý về Duyên Khởi của Đức Phật, “thông qua tiến trình Trở Thành hay Nghiệp hữu (kamma-bhava), mà khởi sinh (duyên) cho Tái Sinh”. Để hiểu được vấn đề này một cách rõ ràng, chúng ta cần phải hiểu được rằng trong thực tại tuyệt đối, không có cái gọi là một ‘con người’ hay một ‘thực thể’ thường hằng nào đó, mà chỉ có tiến trình sinh lý vật lý hay danh sắc (nama-rupa). Ngay cả trong cuộc sống từ lúc khởi đầu cho đến khi chết, những quá trình danh sắc (nama-rupas) luôn khởi sinh và mất đi, sinh diệt liên tục và liên tục.

Cái chết là sự diệt Thức cuối cùng cùng lúc với sự tàn hoại của danh sắc (nama-rupa). Tái sinh lập tức xảy ra, khởi sinh một Thức mới, được gọi là Thức Kết Nối hay Thức Tái Sinh, cùng với danh sắc (chỗ dựa) mới. Nó được gọi là Thức kết nối lại bởi vì nó nối liền sự sống mới và cũ. Sự khởi sinh Thức Tái Sinh do duyên hay sự xúc tiến của Nghiệp cuối cùng trước khi chết. Nói cách khác, chính Nghiệp cuối cùng trước khi chết là nhân duyên làm khởi sinh Thức tái sinh.

Nếu Nghiệp là nghiệp lành, thiện, thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở cuộc sống hạnh phúc. Nếu Nghiệp là dữ, bất thiện, thì sự tái sinh sẽ diễn ra ở một cuộc sống, cõi sống đau khổ. Điều này chính là ý nghĩa khi Đức Phật nói: “Tất cả chúng sinh được sinh ra từ chính nghiệp của mình (Kammayoni)”.

▪ Một điều rất quan trọng để chúng ta lưu tâm rằng:

(a) Không có một linh hồn nào rời khỏi thể xác và chui vào thể xác mới.

=> Nếu không hiểu được điều này thì rất khó chấp nhận nó và thường bị dẫn đến một kiểu tin là có sự di chuyển linh hồn hay hồn đi đầu thai vào thân xác khác, mà trong nhiều phần khác chúng ta gọi là: Quan điểm sai lầm về một linh hồn bất tử.

(b) Khi những Hành Động Tạo Nghiệp hay Nghiệp [1], thì do từ Vô Minh và Dục vọng mà tạo ra, chúng sinh chưa diệt sạch những ô nhiễm này sẽ tiếp tục tích lũy Nghiệp hay mang nghiệp (nghiệp hữu) và tiếp tục chịu tái sinh sau khi chết.

=> Nếu không hiểu điều này, thì khó mà tin nó và thường bị dẫn đến kiểu tin là sự sống bị hủy diệt hoàn toàn sau khi chết. Đó là "quan điểm sai lạc về sự tự hủy diệt, không còn/là gì sau khi chết", mà những nhà duy vật hiện đại còn đang chấp thủ.



IV
Những Kiểu Chết



Sự chết có thể xảy ra vì một trong 4 nguyên nhân sau đây:

(1) Sự kiệt quệ hay hết cạn nguồn lực của Nghiệp Tái Sinh ban đầu của kiếp sống hiện tại. 

(Nghiệp Tái Sinh này có từ lúc sinh kiếp sống này, làm khởi sinh sự sống hay tái sinh ra kiếp sống hiện tại. Không phải là cái Nghiệp Tái Sinh cho sự sống tiếp theo sau khi cái chết của kiếp này -ND).

(2) Sự chấm hết chu kỳ sự sống, sự chấm dứt ‘mạng sống’, mạng chung.

(3) Sự xảy ra đồng thời của 2 nguyên nhân trên, vừa hết nguồn lực Nghiệp Tái Sinh và cũng vừa đến lúc kết thúc chu kỳ hay ‘vòng đời’ sự sống.

(4) Tác động của một Ngiệp mạnh hơn, bất ngờ cắt đứt nguồn lực của Thức Tái Sinh trước khi đến thời hạn kết thúc chu kỳ vay ‘vòng đời’ sự sống. Dân gian hay gọi là chết “bất đắc kỳ tử”, tức chưa đến chu kỳ hay mạng chung đã chết, thường là do nghiệp nặng hội đủ duyên.

Ba kiểu chết đầu tiên gọi là Chết đúng lúc hay Chết đúng mạng. Kiểu chết cuối cùng là Chết không đúng lúc hay Chết không đúng thời mạng.

Ví dụ như có một ngọn đèn, ngọn lửa bị tắt là do một trong 4 trường hợp sau đây:

1. Tim hết,

2. Dầu cạn hết,

3. Vừa dầu cạn vừa tim hết,

4. Lý do hay tác nhân khác hay không liên quan, như một ngọn gió mạnh thổi tắt.

Tương tự vậy, cái chết của chúng sinh cũng có thể do một trong những lý do miêu tả ở trên.



V
Những Đối Tượng Hiện Diện
Trong Tâm trước lúc Chết



Một người sắp chết thì sẽ đối diện với một Nghiệp (Kamma), một Biểu hiện Nghiệp hay Nghiệp tướng (Kamma Nimitta) hoặc Biểu hiện cảnh giới tái sinh (Gati Nimitta).

Nghiệp ở đây là hành động, nghiệp của người chết, dù nghiệp tốt hay xấu.

- Nghiệp mạnh nhất như định nghĩa trước đây chính là Nghiệp Nặng. Nếu Nghiệp Nặng này không có, thì người sắp chết có thể hồi tưởng hay khởi ‘niệm’ hành động ngay trước ‘cổng’ chết, đó được gọi là Nghiệp Cận Tử hay Cận Tử Nghiệp.

- Nếu những Cận Tử Nghiệp này cũng không có, thì Nghiệp Thói Quen hay nghiệp quán tính sẽ hiện diện đến người sắp chết, đó là những hành động hay làm, thói quen thường xuyên làm trong cuộc sống của người đó, chẳng hạn như nghiệp (thói quen) ăn cắp, đối với người sắp chết là một kẻ trộm, hay nghiệp (thói quen) chăm sóc người bệnh yếu trong trường hợp người sắp chết là một người nghành y tế…

Nhưng nếu cũng không có những loại Nghiệp Thói Quen cũng như các Nghiệp nặng, nhẹ khác kia, thì những Nghiệp dự trữ, còn mang từ nhiều (hay vô số) kiếp sống trước, được gọi là Nghiệp Tích Lũy sẽ trở thành đối tượng của suy nghĩ hay tâm Thức ngay lúc chết. 

Trong số những hành động (Hành) cần làm, thì những Phật tử tại gia thường được dạy phải nên làm trước lúc chết, đó là: Thực Hiện 10 Việc Làm (Hành) Công Đức, bao gồm:

♦ Tụng niệm về Tam Bảo và về Ngũ Giới một cách thành tâm;

♦ Hồi tưởng lại một chuyến hành hương về xứ Phật, đã đến những Phật tích, thánh tích để tăng trưởng lòng tin và lòng thành kính đối với Đức Phật, Pháp, Tăng;

♦ Mở băng đĩa lắng nghe lại những bài giáo Pháp hoặc nghe Tăng Ni tụng niệm;

♦ Hồi tưởng, niệm Công Đức của Tam Bảo, hồi tưởng, niệm lại những Công Đức hay lòng Độ Lượng, thiền quán về lòng Từ Bi hay Tứ Niệm Xứ (Satipatthana)…

Những hành động tốt lành như vậy sẽ tạo điều kiện làm khởi sinh những trạng thái Tâm lành, thiện để quyết định cái (tiến trình) Nghiệp cuối cùng trước khi chết và dẫn dắt tái sinh đến cảnh giới nhiều phúc lành, hiền nhiều, dữ ít.

=> Cái chết đến bất kỳ lúc nào, mỗi người nên làm những nghiệp tốt, chuẩn bị tinh thần lành, thiện, để lúc đi xa, hành trang vẫn gồm nhiều Thức tốt đẹp để vượt qua những cuộc hành trình dài, vô định trong những kiếp tương lai.

(a) Biểu Hiện Nghiệp (Kamma Nimitta)

Là tâm cảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm hay ý tưởng một người thu nhận được vào lúc “kết” nghiệp. Chẳng hạn đó là những con dao trong trường hợp người sắp chết là một người hàng thịt; là những bệnh nhân trong trường hợp người sắp chết là bác sĩ; là một biểu hiện hay biểu tượng để thành kính như hình, tượng Phật, Cây Bồ-Đề, hay là một ký ức hạnh phúc trong một chuyến đi hành hương ở Ấn Độ của người sắp chết…trong những trường hợp người sắp chết là một Phật tử kính đạo; ….

(b) Biểu Hiện Cảnh giới Tái sinh (Gati Nimitta)

Là những dấu hiệu, biểu hiện về một nơi nào đó mà sự tái sinh đang có khuynh hướng xảy ra ở đó; hoặc là biểu hiện một sự kiện xảy ra có một không hai, chấn động, không bao giờ quên được trong đời của một người sắp chết điều đó sẽ chi phối và dẫn đến cõi tái sinh nào đó.

Nếu những dấu hiệu chỉ dẫn về sự tái sinh, như nói trên, là xấu, là dữ, nhưng người sắp chết có thể chuyển thành lành, tốt bằng (cách thay thế) những suy nghĩ trước lúc chết, như vậy những suy nghĩ lành, tốt bây giờ sẽ đóng vai trò như nghiệp Cận Tử Nghiệp và ảnh hưởng, tác động ra loại Nghiệp Tái Sinh để làm duyên lành (điều kiện tốt) cho Tái Sinh về nẻo sống tốt lành hơn.

Những biểu hiện, biểu tượng về "nơi đến" hay ‘vận mệnh’ của một người lúc sắp chết có thể là những ngọn lửa địa ngục, hay những vùng núi non, hay cảnh trong dạ con trong bụng mẹ, thiên cung trên cõi trời…



VI
Năm Viễn Cảnh Của Một Người Sắp Chết



Theo Đại trưởng lão tiến Sĩ Rastrapal Mahathera, năm (5) viễn cảnh của một người đang chết thường là:

(1) Lửa địa ngục, thường đối với những người thường bị sinh về cảnh giới địa ngục.

(2) Thú vật và rừng núi, thường đối với những người bị tái sinh thành súc sanh.

(3) Màn tối, thường đối với những người tái sinh thành ngạ quỷ (hay ‘hồn’ ma).

(4) Những cha, mẹ và người thân quyến thuộc đã qua đời, thường đối với những người được tái sinh làm người.

(5) Thiên cung, cảnh trời, nhà cửa hay xe ngựa trên cõi trời, thường đối với những người được sinh về cõi trời để hưởng phúc.

Chuyện kể bên Tàu về một người sắp chết nói rằng người nghe được tiếng dây xích hoặc thấy viễn cảnh những hộ vệ của Vua Yama (Diêm Ma Vương) với đầu trâu mặt ngựa gớm ghiếc mang xiềng xích đến để lôi người ấy về địa ngục để phân xử. Chắc hẳn ông ta là một người mang nhiều Nghiệp Ác.

Biểu hiện về nơi tái sinh (Gati-nimitta) luôn luôn là những biểu hiện, dấu hiệu vật lý được hiện lên ở “Cửa-Tâm” như là một giấc mơ vậy.

Về mặt tâm lý học, những giai đoạn hay viễn cảnh này của Tâm có thể được gọi là ảo ảnh (illusion), ảo tưởng (hallucination) hay ảo giác đánh lừa (delusion). Vì vậy, những người có Tâm minh mẫn và không bị hoang mang vào lúc sắp chết có thể không hiện trong tâm hay thấy gì về một viễn cảnh của nơi sắp tái sinh về.

Những bạn đọc muốn tìm hiểu thêm về những viễn cảnh trên giường chết, nên tìm đọc quyển sách của Đại trưởng lão Tiến Sĩ Rastrapal Mahathera (Sách vàTài Liệu Tham Khảo, Số 3.) trong đó tác giả đã kể lại kinh nghiệm cá nhân của một cư sĩ trong lúc hấp hối thấy được nhiều viễn cảnh trên và những cách thức trưởng lão đã giúp làm dịu những nỗi sợ của người hấp hối để dẫn đến trạng thái tâm có thể dẫn đến tái sinh vào một cõi tốt lành.



VII
Thức Hấp Hối, Thức Lúc Đang Chết



Thử lấy đối tượng là một hành động, một nghiệp (kamma) hoặc là một Biểu Hiện của Nghiệp (kamma nimitta) hoặc là Biểu Hiện, dấu hiệu của Nơi sẽ Tái Sinh đến (gati nimitta), thì Thức chạy dọc theo một tiến trình (course) của nó, thậm chí ngay cả khi cái chết xảy ra trong một tức thì, trong một cái ‘tích’-chưa-đến-‘tắc’.

Theo “Vi Diệu Pháp” (Abhidhamma), một tiến trình tư duy, ý nghĩ bình thường chạy trong 17 khoảng-khắc-nghĩ hay còn gọi là 17 sát-na Tâm (citta), trong đó tiến trình Javana[2]kéo dài 7 sát-na tâm. Giai đoạn Javana này là quan trọng nhất, đứng về mặt đạo đức, cho việc tái sinh của một người!. Đến giai đoạn tâm lý này những gì xấu hay tốt, lành hay dữ, thì thật sự đã làm xong rồi: Nghiệp đã được thi hành!.

Những luận sư nói rằng trong một giai đoạn, khoảng khắc ngắn ngủi này, giống như ánh chớp của một tia chớp bằng tốc độ ánh sáng, vẫn có hàng tỷ sát-na Tâm (cittas). Trong tiến trình tư duy trước khi chết, thì tiến trình Javana là rất yếu ớt và chỉ chạy trong vòng 5 sát-na Tâm. Nhưng tiến trình Javana này lại là quan trọng nhất vì nó quyết định Nghiệp Tái Sinh (TA: reproductive kamma) cho kiếp sống tiếp theo. Sau đó thì Thức đăng nhập hay đăng ký (registering consciousness) nhận diện đối tượng có thể theo hoặc không theo. Cuối cùng, Thức Lâm Chung hay Thức Tử Mạng (cuti-citta), là tâm thức cuối cùng được biết đến của kiếp sống hiện tại (trước khi tái sinh qua kiếp sống tiếp theo).

“Ngay khi chết, Thức cuối cùng (Thức tử mạng) biến mất, làm điều kiện, làm khởi sinh cho một Thức mới xuất hiện, đó là Thức Tái Sinh (Patisandhi) trong một thể xác hay một dạng sinh hài mới. Rồi đến lượt Thức mới (Thức Tái Sinh) cũng lập tức biến mất, liên tục, liên tục, như một dòng chảy không gián đoạn, như dòng sông vậy, (liên tục chảy, nhưng đó là những giọt nước mới (Thức mới) liên tục đến rồi chảy qua, chứ không có một giọt nước nào đến rồi đứng yên không chảy đi - ND). Dòng chảy mới của sự sống này mang theo tất cả kinh nghiệm của quá khứ. Dòng chảy mới hay sự sống mới này không phải tuyệt đối giống hệt trong quá khứ, vì sự sống trong quá khứ bao gồm những thành phần cấu tạo khác, mà cũng không hoàn toàn khác nhau, mà chỉ có chung một dòng Nghiệp lực.

Sự biến điệu, sự gián đoạn hay chuyển đổi giữa các Thức trong dòng chảy này là cực kỳ ‘chớp nhoáng’ nhanh hơn điện chớp mà ta thường gọi là một sát-na Tâm hay sát-na Thức, một khoảng khắc thời gian cực nhỏ, không có chỗ cho bất cứ cái gì xen vào giữa.

- Bạn có thể hình dung thời gian giữa khi 2 điểm sát nhau trên một bánh xe đang quay nhanh tiếp xúc mặt đất vậy, theo lý thuyết vật lý học. Mặc dù điều đó là cực kỳ ‘dài’ hơn cái khoảng cách của tiến trình tâm của 2 Thức sinh diệt, nhưng chúng ta còn không hình dung ra được có bất cứ đơn vị thời gian hay hiện tượng nào có thể xảy ra giữa 2 điểm tiếp xúc đó (ND).

Đó được gọi là trạng thái chuyển tiếp hay trung gian hay còn gọi là trung hữu (antara-bhava). Theo bộ “Những Điểm Dị Biệt” (Kathavatthu) của Vi Diệu Pháp Tạng, có một số trường phái Phật giáo, như Pubbaseliya (Đông Sơn Trụ Bộ) và Sammatiya (Chánh Lượng Bộ) cho rằng có một giai đoạn tạm thời để chờ thọ thai (đầu thai lại, TA: re-conception) mất một tuần hay nhiều hơn. Lập luận ngược lại dựa vào lời tuyên thuyết của Đức Phật là chỉ có 3 giai đoạn “Trở Thành” (tức là giai đoạn Trở thành, hiện thành hay còn gọi là Hữu (bhava) trong vòng duyên khởi - đó là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Cho nên, những người theo Phật giáo không tin rằng có ‘linh hồn’ của một người chết chiếm chỗ trong giai đoạn chuyển tiếp nào đó đến khi tìm thấy được một nơi thích hợp hay tử cung để đầu thai vào. Sự Tái Sinh diễn ra ngay lập tức và không có sự khác biệt nhau về mặt thời gian dù ‘người đó’ tái sinh về cảnh giới phúc lành trên trời hay cõi người. Cái thật sự thúc đẩy, duyên sinh cho sự Tái Sinh không phải là Thức Tử Mạng (cuti-citta), nhưng chính là tiến trình tâm thức Javana như đã diễn tả ở trên. Nếu tiến trình Javana là tốt lành, thì tái sinh sẽ diễn ra ở một cảnh giới phúc lành; nếu nó không tốt không lành, thì tái sinh sẽ diễn ra ở một cảnh giới xấu, nhiều đau khổ, đày đọa.

=> Sau khi hiểu được điều này và hiểu được sự thật là cái chết có thể đến bất cứ lúc nào trong đời, thì chúng ta luôn luôn chú tâm và thực hành nhiều điều tốt lành và khéo léo để có thể đối diện với lúc lâm chung trước khi quá muộn màng



VIII
Những Kiểu Sinh



Có bốn (4) kiểu sinh (tái sinh), đó là:

(1) Sinh từ trứng (noãn sinh),như loài chim, bò sát và cá.

(2) Sinh từ dạ con (thai sinh), như người, động vật có vú và một số địa thần trên trái đất.

(3) Sinh từ độ ẩm, nơi ẩm ướt (thấp sinh), như một số loài côn trùng lấy độ ẩm, nơi ẩm ướt làm sinh sôi.

(4) Sinh do tự phát (tự nhiên sinh), đó là những chúng sinh ‘khuất mắt’, mắt thường của người không thể nhìn thấy được. Do duyên từ nghiệp trong quá khứ, họ xuất hiện bất ngờ, không tùy thuộc vào cha, mẹ gì cả. Trời Phạm Thiên (Brahmas), thiên thần (devas), ngạ quỷ (petas), quỷ thần hay A-tu-la (asuras) và những chúng sinh trong địa ngục đều thuộc nhóm này

Có chín (9) nhóm vật chất (sắc uẩn) được tạo ra bởi Nghiệp (Kamma), đó là: 

(a) Căn hay chỗ dựa của Thức, 

(b) Nguồn gốc căn bản của sự sống, 

(c) Giống đực, 

(d) Giống cái,

(e) Năm (5) cơ sở vật chất (sắc) là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. 

Chín (9) nhóm vật chất này phát triển đầy đủ trong những loài chúng sinh thuộc nhóm tự nhiên sinh. Vì thế, loài chúng sinh tự nhiên hay sinh tự phát không cần có cha mẹ để dễ cung cấp nhanh lớp vật chất hay những tế bào cho sự tái sinh của chúng sinh đó.



IX
Bốn Dạng Cảnh Giới 



Có dạng 4 cảnh giới hiện hữu (tái sinh) của chúng sinh là:

(a) Cảnh Dục Giới nhiều Đau Khổ (apaya/ kamaduggati bhumi)

(b) Cảnh Dục Giới nhiều Phúc Lành (kamasugati bhumi).

(c) Cảnh Sắc Giới (rupa bhumi).

(d) Cảnh Vô Sắc Giới (arupa bhumi).

(a) Trong Cảnh giới Dục Giới nhiều đau khổ, có 4 cõi sống, đó là:

Địa ngục (niraya),

Súc sinh hay thú giới,

Ngạ quỷ hay ‘ma’ giới (peta), và

Quỷ thần hay A-tu-la (asuras).

Sự tái sinh vào những cảnh giới này là do nghiệp tái sinh không lành (Nghiệp dữ, bất thiện) đóng vai trò quyết định ngay lúc chết.

(b) Có bảy (7) cõi sống trong Cảnh Dục giới nhiều Phúc lành, bao gồm 1 cõi người và 6 cõi trời, thì sự tái sinh vào cõi người hay thiên thần, trời là do tác động của nghiệp tái sinh thiện (cao hơn). 

Tuy nhiên, nếu cũng tái sinh làm người mà bị câm, điếc, đui, què, tật nguyền, hoặc tái sinh thành quỷ thần, A-tu-la nóng giận đau khổ thuộc cõi hạ giới của Tứ Đại Thiên Vương, thì những sự tái sinh đó là do tác động thúc đẩy của Nghiệp tái sinh tiểu thiện (thấp hơn).

▪ (Xem thêm Chương XI, Những loại Nghiệp Thiện).

(c) Trong Cảnh giới Sắc Giới (rupa bhumi), sự tái sinh vào 1 trong 16 cõi  Sắc Giới của những vị trời Phạm Thiên (Brahma) là nhờ vào sự chứng đạt một trong các Tầng Thiền Sắc Giới (rupa jhana) của một người.

(d) Trong Cảnh giới Vô Sắc Giới (arupa bhumi), sự tái sinh vào trong 4 cõi Vô Sắc Giới của những vị trời Phạm Thiên là nhờ vào sự chứng đạt một trong các Tầng Thiền Vô Sắc Giới (arupa jhana) của một người.

▪ Tóm lại, 4 Cảnh Giới Tái Sinh chính bao gồm tất cả 31 cõi hiện hữu hay cõi sống. Toàn bộ các cõi hiện hữu này này được trình bày một cách chi tiết ở trong Chương tiếp theo.





X
Sách và Tài Liệu Tham Khảo



1. “The Buddhist Doctrine of Kamma and Rebirth” (Học Thuyết Phật giáo về Nghiệp và Tái Sinh), tác giả Đại trưởng lão Narada Maha Thera.

2. “A discourse on Paticca Samuppada” (Bài Thuyết Giảng về Lý Duyên Khởi), tác giả Thiền Sư Mahasi Sayadaw, Miến Điện.

3. “Five Visions of a Dying Man” (Năm Viễn Cảnh của Người Sắp Chết), tác giả Đại trưởng lão Rastrapal Mahathera, Nxb. Bodhi Leaves, No. 150, ấn bản năm 2000 của Hội Ấn Hành Phật Giáo (Buddhist Publication Society), Kandy, Sri Lanka.

4. “Points of Controversy” - (Bản Dịch “Những Điểm Dị Biệt” – “Katha-Vatthu”) của Shwe Zan Aung và bà Rhys Davids. Xuất bản bởi Hội Kinh Điển Pali (PTS), London, 1979.



[1] Xin nhắc lại, trong khái niệm này, thì những "hành động cố ý, hành động ý chí, hành động tạo nghiệp, Hành hay Nghiệp"… đều diễn tả một nghĩa như nhau –ND,

[2] Từ này đã từng được dịch là “khoảnh khắc thúc đẩy” hoặc “khoảnh khắc tốc hành” (theo dịch giả Nguyễn Văn Ngân dịch “Đạo Vô Ngại Giải” từ tiếng Anh sang tiếng Việt).

Cũng như C. A. F. Rhys Davids, Bhikkhu Bodhi đề nghị để nguyên chữ "javana" không dịch. Đây là một thuật ngữ thuộc “Vi Diệu Pháp” cao học.

Xin bạn đọc tìm đọc về đề tài này theo bản dịch từ tiếng Pali qua tiếng Anh của Ngài Bhikkhu Bodhi (“A Comprehensive Manual of Abhidhamma”, BPS, [Kandy 1993] đoạn (12) trang 124, chú thích 8, 9 trang 372, trang 389. Chữ ‘tiến trình’ (vīthi: nđ ‘lộ trình’) được dịch theo Bhikkhu Bodhi, sđd, đ. 4 trang 151). Dịch giả Nguyễn Văn Ngân dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt “Đạo Vô Ngại Giải”).


Trích từ cuốn GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC do cư sĩ LÊ KIM KHA
dịch từ cuốn BUDDHISM COURSE của CHAN KHOON SAN










Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.