Chuyển đến nội dung chính

Kinh Trung Bộ - 98. Kinh Vàsettha

98. Kinh Vàsettha
(Vàsettha sutta)
98. Kinh Vàsettha - Kinh Trung Bộ - Đạo Phật Nguyên Thủy

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala.

Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"

Thanh niên Bharadvaja nói như sau:

-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn.

Thanh niên Vasettha nói như sau:

-- Nếu ai có giới hạnh và thành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn.

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja:

-- Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.

-- Thưa vâng.

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn:

Chúng con cả hai người, 
Ðược tôn xưng, tự nhận, 
Là những bậc thông thái
Cả ba tập Vệ-đà.

Con là đệ tử Ngài, 
Pokkharasati, 
Còn vị thanh niên này, 
Ðệ tử Tarukkha.

Ba Vệ-đà nói gì, 
Chúng con đều thông đạt, 
Văn cú và văn phạm, 
Chúng con đều thấu hiểu, 
Thuyết giảng và giải thích, 
Thật giống bậc Ðạo sư. 

Tôn giả Gotama, 
Giữa hai người chúng con
Có sự tranh luận này, 
Về huyết thống thọ sanh.

Bharadvaja nói: 
"Chính do sự thọ sanh".
Con nói: "Do hành động, 
Mới thành Bà-la-môn".
Mong bậc có Pháp nhãn, 
Hiểu cho là như vậy.
Cả hai người chúng con, 
Không thể thuyết phục nhau. 
Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Chánh Giác tôn xưng. 

Như trăng được tròn đầy, 
Quần chúng đến chấp tay,
Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng. 
Cũng vậy, ở trong đời, 
Quần chúng đến đảnh lễ, 
Gotama Tôn giả. 

Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Pháp nhãn thế gian, 
Bà-la-môn do sanh, 
Hay chính do hành động? 
Chúng con không được biết, 
Hãy nói chúng con biết. 

Ðức Thế Tôn bèn nói:

Này Ông Vasettha, 
Ta trả lời cho Ông, 
Thuận thứ và như thật, 
Sự phân loại do sanh, 
Của các loại hữu tình, 
Chính do sự sanh đẻ, 
Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem cỏ và cây, 
Dầu chúng không nhận thức, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem loại côn trùng, 
Bướm đêm, các loại kiến, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem loại bốn chân, 
Loại nhỏ và loại lớn, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem loài bò sát, 
Loại rắn, loại lưng dài, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước, 
Chúng có tướng thọ sanh,
Da sanh, có dị loại.

Hãy xem các loại chim, 
Loại có cánh trên trời, 
Chúng có tướng thọ sanh, 
Do sanh, có dị loại.

Tùy theo sự thọ sanh, 
Chúng có tướng tùy sanh. 
Trong thế giới loài Người, 
Tướng sanh không có nhiều.

Không ở đầu mái tóc, 
Không ở tai, ở mắt,
Không ở miệng, ở mũi, 
Không ở môi, ở mày, 
Không ở cổ, ở nách, 
Không ở bụng, ở lưng, 
Không ở ngực, ở vú, 
Không âm hộ, hành dâm. 
Không ở tay, ở chân, 
Không ở ngón, ở móng, 
Không ở cổ chân, vế, 
Không ở sắc, ở tiếng.

Không tướng, do tùy sanh, 
Tùy sanh, loại sai khác.
Trên tự thân con người, 
Không có gì đặc biệt. 
Chỉ tùy theo danh xưng, 
Loài Người được kêu gọi. 

Ðối người tự sinh sống. 
Chăn bò, lo ruộng đất, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là nông phu, 
Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống theo nghề nghiệp, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là công thợ, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề buôn bán, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là thương nhân, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống hầu hạ người, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là nô bộc, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống lấy của người, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là kẻ trộm, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề cung tên, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là nhà binh, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề tế tự, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là tế quan, 
Không phải Bà-la-môn.

Ai sống giữa loài Người, 
Thọ hưởng làng, quốc độ, 
Vasettha hãy biết, 
Kẻ ấy là vua chúa, 
Không phải Bà-la-môn. 

Và Ta không có gọi, 
Kẻ ấy Bà-la-môn. 
Chỉ vì do thọ sanh, 
Dầu vị ấy cao sang, 
Dầu vị ấy giàu có, 
Nhưng còn ham thế lợi. 

Không tham lam thế lợi, 
Không chấp thủ sở hữu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Vị đoạn tận kiết sử, 
Không ai không sợ hãi, 
Siêu việt mọi chấp trước, 
Thoát ly các hệ phược, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Cắt dây thừng, dây ách, 
Dây cương, cùng dây trói, 
Quăng đi cây chắn ngang, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Bậc sáng suốt, giác ngộ, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không lỗi, chịu đựng, 
Nhiếc mắng cùng đánh trói, 
Trang bị với nhẫn lực, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Không phẫn nộ, giữ luật, 
Có giới hạnh không kiêu, 
Nhiếp phục, thân tối hậu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Như nước trên lá sen, 
Hột cải trên đỉnh nhọn, 
Không tham luyến dục vọng, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận, 
Gánh nặng được đặt xuống, 
Xa lìa các hệ phược, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo, 
Ðích tối thượng đạt được, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không còn liên hệ, 
Cả tại gia, xuất gia, 
Không nhà trú, thiểu dục, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Bỏ gậy đối chúng sanh, 
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh, 
Không giết, không hại ai, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Giữa kẻ thù, không thù, 
Giữa hung bạo, an tịnh, 
Giữa chấp thủ, không chấp, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Dối, tham, sân, mạn, phú, 
Ai bỏ rơi được chúng, 
Như hột cải rơi khỏi. 
Ðầu nhọn của mũi kim, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai dạy thật nhỏ nhẹ, 
Nói lên lời chơn thực, 
Không xúc chạm một ai, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Dài ngắn hay lớn nhỏ, 
Thanh tịnh hay bất tịnh, 
Ở đời vật dài ngắn, 
Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh, 
Không lấy vật không cho, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Với ai không tham cầu, 
Ðời này và đời sau, 
Từ bỏ mọi tham cầu, 
Ðoạn rời mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp tàng, 
Với trí đoạn nghi hoặc, 
Ðạt nhập đáy bất tử. 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời ai vượt khỏi, 
Mọi buộc ràng thiện ác, 
Không sầu, không bụi uế, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không uế, thanh tịnh, 
Không gợn, sáng như trăng, 
Hỷ, hữu được đoạn trừ, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai vượt qua hiểm lộ, 
Ác lộ, luân hồi, si, 
Vượt khỏi, đến bờ kia, 
Thiền tư, không dao động, 
Ðoạn trừ mọi nghi hoặc, 
An tịnh, không chấp trước, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ dục vọng, 
Không nhà, sống xuất gia, 
Ðoạn trừ dục và hữu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ tham ác, 
Không nhà, sống xuất gia, 
Ðoạn trừ ác và hữu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai từ bỏ nhân ách, 
Vượt qua cả thiên ách, 
Ðoạn trừ mọi ách nạn, 
Thoát ly mọi hệ phược, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Từ bỏ lạc, bất lạc, 
Thanh lương, không y trú, 
Chiến thắng mọi thế giới, 
Bậc anh hùng dũng mãnh, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn.

Ai biết thật hoàn toàn, 
Sự sanh diệt chúng sanh, 
Không tham trước, Thiện Thệ, 
Giác ngộ, đạt chánh giác, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Không biết chỗ sở thủ, 
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà, 
Lậu hoặc được đoạn trừ, 
Bậc Ứng Cúng, La-Hán, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp trước, 
Ðời trước, sau, đời này, 
Không chấp, không sở hữu, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ngưu vương, bậc Tối thắng, 
Anh hùng, bậc Ðại sĩ, 
Bậc Chinh phục, Bất động, 
Tắm sạch, bậc Giác Ngộ, 
Kẻ ấy Ta mới gọi, 
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết được đời trước, 
Thấy được thiện, ác thú, 
Ðạt được sanh diệt đoạn, 
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn. 

Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc", 
Chỉ tục danh, thông danh, 
Danh từ khởi nhiều chỗ.

Ðã lâu đời chấp trước, 
Tà kiến của kẻ ngu,
Kẻ ngu tự tuyên bố, 
Bà-la-môn do sanh.

Không phải do sanh đẻ, 
Ðược gọi Bà-la-môn, 
Không phải do sanh đẻ, 
Gọi phi Bà-la-môn.

Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn, 
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà-la-môn.

Hành động làm nông phu, 
Hành động làm công thợ, 
Hành động làm lái buôn, 
Hành động làm nô bộc.

Hành động làm ăn trộm, 
Hành động làm nhà binh. 
Hành động làm tế quan, 
Hành động làm vua chúa.

Kẻ trí thấy hành động, 
Như thật là như vậy. 
Thấy rõ lý duyên khởi, 
Biết rõ nghiệp dị thục.

Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi. 
Nghiệp trói buộc chúng sanh, 
Như trục xe quay bánh.

Do khổ hạnh, Phạm hạnh, 
Tiết chế và chế ngự, 
Tác thành Bà-la-môn. 
Bà-la-môn như vậy, 
Mới thật là tối thượng, 

Ba Vệ-đà thành tựu, 
An tịnh, tái sanh đoạn, 
Vesettha nên biết, 
Kẻ ấy được Phạm thiên, 
Ðược Thiên chủ Sakka, 
Biết đến thật tường tận.

Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.

Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Trung Bộ
Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali



BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.