Giới thiệu Trung Bộ
Kinh
Hòa thượng Thích Minh
Châu
1. Lời Nói Ðầu
(trong bản in lần thứ nhất năm 1973)
(trong bản in lần thứ nhất năm 1973)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh
tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và
tập III, gồm 52 Kinh chót.
Sau khi dịch xong Kinh Trường Bộ (Digha Nikàya),
Vu Lan 2516 (23-8-1972), tôi dịch tiếp Kinh Trung Bộ. Tôi dựa theo nguyên bản
Pàli của Hội Pàli Text Society để phiên dịch và dùng ba bản dịch làm tài liệu.
Tài liệu thứ nhất là những ghi chú bằng tiếng Anh và chữ Hán, tôi đã tự mình
ghi vào bản Pàli, từng chữ, từng hàng, từng trang một, khi tôi theo học bản
Pàli này, từ năm 1952 đến năm 1955 tại Hội Dharmaduta Vidhyalaya ở Colombo,
Tích Lan, do Ngài Pannananda diễn giảng. Bản tài liệu thứ hai là bản dịch
"The Middle Length Sayings" của Cô L. B. Horner, hội Pàli Text
Society, một công trình dịch thuật rất chu toàn; và bản thứ ba là bản dịch ra
tiếng Nhật của bộ Nam truyền Ðại Tạng Kinh. Thỉnh thoảng tôi tham khảo các bản
kinh Hán Tạng tương đương nếu thấy cần thiết.
Vấn đề tìm được Hán tự tương đương với chữ Pàli,
thật là một vấn đề nan giải. Như biết Pancak Khandha là năm uẩn, Rùpa là Sắc,
Vedanà là Thọ, Sannà là Tưởng, Sankhàrà là Hành và Vinnàna là Thức, thời dịch
vừa gọn, vừa nhanh. Nhưng nếu gặp những danh từ chưa có chữ Hán tương đương là
cả một vấn đề thật khó khăn và nan giải.
Các bài Kinh chữ Hán tương đương trong bộ Trung
A Hàm không giúp đỡ được nhiều. Ngài Sanghadeva (Tăng Già Ðề Bà) dịch Trung A
Hàm vào năm 398 sau kỷ nguyên, nên nhiều danh từ Ngài dùng không được các dịch
giả về sau như Ngài Huyền Trang chấp nhận. Như Vedana, Ngài Sanghadeva dịch là
Giác, về sau dịch là Thọ; Savitakka, Savicara, Ngài dịch là Hữu giác, Hữu quán,
về sau dịch là Hữu tầm, Hữu tứ; Phassa Ngài dịch là Cánh Lạc, về sau dịch là
Xúc. Cho nên, bản Hán tạng nhiều khi tối nghĩa và dễ phát sinh hiểu lầm, nếu
chúng ta không có bản Pàli tương đương.
Chúng tôi dịch Kinh Pàli, không vì mục đích muốn
ủng hộ hay không muốn ủng hộ một học phái nào, một lập trường nào. Mục đích của
chúng tôi chỉ muốn giới thiệu những Kinh điển có thể được xem là nguyên thủy
hay gần nguyên thủy nhất, để người đọc có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của
đức Phật, khỏi qua ống kính của một học phái nào, dầu là Ấn Ðộ, Trung Hoa hay
Việt Nam. Chúng tôi cũng không có trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào
là nguyên thủy, đoạn nào không phải nguyên thủy. Chỉ có người đọc, sau khi tự
mình đọc, từ mình tìm hiểu, tự mình suy tư, tự mình quan sát, tự mình chứng
nghiệm trên bản thân, mới có thể tự mình tìm hiểu và thấy đoạn nào là thật sự
nguyên thủy. Trách nhiệm tìm hiểu, chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của
người đọc, không phải của người dịch, vì Ðạo Phật là Ðạo đến để mà
thấychớ không phải Ðạo đến để nhờ người thấy hộ, Ðạo của
người có mắt (Cakkhumato), không phải Ðạo của người nhắm
mắt; Ðạo của người thấy, của người biết (Passato
Jànato), không phải là Ðạo của người không thấy, không biết (Apassato Ajànato).
Nên chỉ có người đọc mới có thể tự mình thấy, tự mình hiểu và tự mình chứng
nghiệm.
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc
và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật, và vì
trách nhiệm ấy chúng tôi đã cố gắng phiên dịch Kinh Tạng Pàli ra Việt ngữ.
Chúng ta chỉ cần đọc, cần suy tư chính chắn và rồi chính chúng ta tự ý thức đâu
là những lời dạy trung thực của đức Bổn sư chúng ta.
Tỷ kheo Thích Minh Châu
Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973
Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973
2. Lời Giới Thiệu
(trong bản in năm 1986)
(trong bản in năm 1986)
Chúng tôi cho in lần thứ hai Kinh Trung Bộ Tập
I, II, và III, với những mục đích chính như sau :
Chúng tôi in Kinh Trung Bộ từ năm 1973 đến năm
1975, được phiên dịch trong khoảng 1970 đến 1975 nên bản dịch có nhiều thiếu
sót. Trước hết một số danh từ như Adassan trước dịch là "không hiểu
rõ", nay dịch lại là "không được thấy"; Sanjànàti trước dịch là
"chấp nhận", nay dịch là "tưởng tri"; Parijànàti trước dịch
là "hiểu rõ", nay dịch là "liễu tri"; Abhijànàti, trước
dịch là "biết rõ", nay dịch lại là "thắng tri"; Pajànàti,
trước dịch là "hiểu rõ", nay dịch lại là "tuệ tri".
Một danh từ nữa cũng hay dùng sai, có thể gây
hiểu lầm như chữ Kàmaguna, Hán dịch là "Dục công đức", mà công đức
thường có nghĩa tốt lành, trong khi nghĩa chữ "guna" là làm "tăng
trưởng lòng dục". Nên chúng tôi dịch là "Dục tăng trưởng". Danh
từ dịch sai khá nhiều, nên bản in lần này dịch lại cho đúng hơn. Một sự cố gắng
nữa của chúng tôi là Việt hóa một số danh từ để gần với bản sắc dân tộc hơn.
Như trước dịch Trung Bộ Kinh, nay sửa lại Kinh Trung Bộ. Trước dịch kinh
"Nhứt thiết lậu hoặc", nay sửa lại kinh "Tất cả lậu hoặc".
Trước dịch kinh "Bố dụ" nay đổi lại kinh "Ví dụ tấm vải".
Trước dịch là "Ngưu giác lâm tiểu kinh" nay dịch lại "Tiểu kinh
Rừng sừng bò".
Còn đối với danh từ Pàli về tên người, tên địa
danh, chúng tôi chưa tìm ra được một công thức thích hợp, nên nay chúng tôi thả
lỏng vấn đề này. Ví dụ, chữ Sàvatthi, chữ Hán là Xá-vệ, dịch âm phải là
Xa-vát-thi, chúng tôi chưa theo lối dịch âm được, vì cách đọc chữ Pàli có nhiều
điểm giống như tiếng Việt, nên nhiều khi chúng tôi giữ tiếng Pàli. Chữ
Sàriputta, theo Hán dịch là Xá-lợi-phất, theo dịch âm phải là Xa-ri-pút-ta,
nhưng chúng tôi vẫn giữ Sàriputta. Còn theo Hán dịch thời quá xa với nguyên bản
Pàli hay Sanskrit, chỉ ai quen với chữ Hán thời đọc và hiểu được. Ðây chưa nói
đến một số danh từ thuật ngữ chuyên môn, nhất là dùng để diễn tả tiến trình đưa
đến chứng quả Niết bàn, hoặc không tìm được, hoặc chưa tìm được danh từ thuật
ngữ chuyên môn bên Hán tạng, thành thử một số thuật ngữ chỉ được sử dụng tạm
thời, chờ đợi sự gạn lọc của thời gian hay sự bổ khuyết của chư học giả mười
phương, mới có khả năng giải quyết vấn đề nan giải này.
Gần chúng ta hơn, Kinh Trung Bộ này đã nằm trong
chương trình học của Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, và Tăng Ni Sinh cần có
Kinh sách để học hỏi nghiên cứu, cho nên cho in lại Kinh Trung Bộ là đáp ứng
nhu cầu cấp bách này. Ngoài ra Kinh Trung Bộ đang được nhiều nhà học giả, nhiều
Phật tử nghiên cứu và tìm hiểu, vì chúng ta có thể nói Kinh Trung Bộ không
những là cốt lõi trong Kinh Tạng Pàli mà còn diễn đạt rất súc tích và đầy đủ
những định nghĩa căn bản các danh từ đạo Phật và còn diễn đạt rất phong phú và
đa dạng những pháp môn tu tập đưa đến Niết bàn. Chưa học Kinh Trung Bộ là chưa
nắm được tinh hoa của Ðạo Phật nguyên thủy. Chưa nghiên cứu Kinh Trung Bộ rất
có thể rơi vào những lệch lạc định nghĩa các danh từ chuyên môn trong đạo Phật
mà Ðức Phật đã dày công định nghĩa, mỗi khi Ngài thuyết giảng giáo lý của Ngài.
Chúng tôi chỉ có thể nói một cách vắn tắt là
Kinh Trung Bộ đặt nặng về phần Chánh Tri Kiến và các phương pháp tu hành, nhất
là những tiến trình tu chứng đi từ Giới, Ðịnh, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri
kiến. Còn Kinh Trường Bộ đặt nặng phần lịch sử, có tánh cách đối ngoại đối với Bà
La Môn, du sĩ ngoại đạo, Kỳ na giáo... Tăng Chi Bộ đặt nặng phần phân tích giáo
lý theo pháp số từ số 1 đến số 11. Tương Ưng Bộ đặt nặng phần phân tích giáo lý
theo đề tài. Còn đọc Kinh Trung Bộ chúng ta đi sâu vào phần giáo lý và phần
hành trì, đặt nặng về những phản ứng tâm lý tế nhị của người tu hành khi đạt
đến những quả vị tối cao.
Công trình phiên dịch của tôi, một mặt đáp ứng
sở nguyện xuất dương tu học của tôi, một mặt xây dựng những tài liệu nghiên cứu
đạo Phật cho các Học giả và Phật tử Việt Nam. Lẽ dĩ nhiên trong trách nhiệm
hiện tại của tôi, sự phiên dịch đòi hỏi nhiều cố gắng, nhiều dụng công kiên trì
và liên tục, nhưng chúng tôi đã được tưởng thưởng xứng đáng, khi được tận hưởng
những Pháp Lạc do Chánh Pháp đem lại trong khi phiên dịch. Pháp Lạc này ẩn chứa
trong từng chữ từng câu, tiềm tàng trong từng câu văn giọng nói, và chính Pháp
Lạc đã nuôi dưỡng và khích lệ chúng tôi rất nhiều trong công tác phiên dịch
này.
Càng dịch, chúng tôi càng thấy rõ ác ý của các
nhà Bà La Môn đã dùng danh từ "Tiểu Thừa" để gán vào những lời dạy
thực sự nguyên thủy của đức Phật và khiến cho các Phật tử không dám đọc, không
dám học, không dám tu những pháp môn ấy. Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm
độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo
lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư
tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được
học hỏi tu hành. Nhưng chân lý bao giờ cũng là chân lý, mặt trời bao giờ cũng là
mặt trời. Những lời ba hoa của Ma Vương, các cuộc đo tài của những ngọn đèn lẻ
tẻ mù mờ, lời lẽ bập bẹ của những kẻ mới tập tểnh đi vào con đường triết lý,
tất cả cũng chỉ là cuồng vọng đen tối, được ánh sáng rực rỡ của chân lý quét
sạch.
Có người than kinh Pàli quá dài và có nhiều đoạn
trùng điệp. Khi dịch Kinh, bao giờ tôi cũng phải kính trọng nguyên bản, và vì
vậy chúng tôi không có thể tự ý lược bỏ những đoạn trùng điệp, dầu rằng nguyên
bản Pàli chúng tôi phiên dịch cũng đã lược bỏ khá nhiều. Ðiều chúng ta nên nhớ
là phần lớn Kinh điển được kiết tập trong các Ðại hội Kiết tập và đều do chư
Tăng tụng đọc lại những đoạn các vị ấy đã ghi nhớ, và lẽ dĩ nhiên khi tụng đọc
không bao giờ có chuyện lược bỏ. Lại nữa đức Phật trong khi đi truyền giáo, mỗi
Kinh đều được giảng trọn vẹn trong mỗi hoàn cảnh đặc biệt và chư Tăng ghi nhớ
lại không bao giờ dám lược bỏ các đoạn đã được nghe. Do đó, có nhiều đoạn trùng
điệp, khó lòng lược bỏ cho được. Dầu thế nào, các đoạn trùng điệp vẫn có sự tác
dụng cho người đọc, vì không gì tốt đẹp hơn là được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
những giáo lý quan trọng và những pháp tu căn bản.
Chúng tôi nay chỉ chú trọng phiên dịch, và mong
dịch cho được chu toàn và đầy đủ, để làm tài liệu nghiên cứu và tu học cho các
Phật tử và Học giả, chưa có một nhận xét, phê bình, so sánh đối chiếu gì. Mỗi
bộ Kinh được dịch xong là những nguồn tài liệu văn hóa hết sức phong phú và quý
giá cho các Học giả và các Phật tử, và hiện tại sự cố gắng duy nhất của chúng
tôi là cung cấp những tài liệu văn hóa ấy.
Cho nên, với 5 bộ Kinh Trường Bộ, Kinh Trung Bộ,
Kinh Tăng Chi, Kinh Tương Ưng, Kinh Tiểu Bộ, chúng tôi nghĩ là giới thiệu được
những tài liệu khá chính xác và đầy đủ để các nhà Học giả, Tăng Ni Phật tử,
Sinh viên đi sâu được vào những Giáo lý và Giáo pháp căn bản, thật sự là nguyên
thủy của Ðạo Phật.
Sài Gòn, ngày 8 tháng 11
năm 1986
Tỷ kheo Thích Minh Châu
Thiền viện Vạn Hạnh
Tỷ kheo Thích Minh Châu
Thiền viện Vạn Hạnh
(Bình Anson tổng hợp,
11-1999)
Chân thành cám ơn chị
Hải Hạnh đã có thiện tâm giúp đánh máy lại bài viết nầy (Bình Anson, 11-1999)
Giới
thiệu Trung Bộ Kinh
Bình
Anson
Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya) là một trong năm
bộ kinh chính của Kinh Tạng (Sutta Pitaka) trong hệ Pali (Nam Phạn): Trường Bộ,
Trung Bộ, Tăng Chi Bộ, Tương Ưng Bộ, và Tiểu Bộ. Trong hệ Hán-Sanskrit (Bắc
Phạn), bộ kinh tương ứng với Trung Bộ Kinh là Trung A Hàm (Madhyamagama) vốn là
một trong bốn bộ Kinh A Hàm (Agamas): Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A
Hàm, và Tạp A Hàm.
Cuối năm 1995 vừa qua, tôi lại có duyên may kính
thỉnh được ba bộ kinh quý: The Middle Length Discourses, bản dịch tiếng Anh của
bộ Majjhima Nikaya; Trung Bộ Kinh, bản dịch Việt ngữ từ tạng Pali; và Trung A
Hàm, bản dịch Việt ngữ từ Hán tạng.
Bản Dịch Việt Ngữ
Theo tôi được biết thì công tác dịch Kinh Tạng
từ Pali sang Việt ngữ bắt đầu thực hiện vào cuối thập niên 1960, và các bản
thảo được phổ biến giảng dạy trong giới Tăng Sinh tại Việt Nam từ thời đó. Một
vài bài kinh quan trọng (Tứ Niệm Xứ, Quán Niệm Hơi Thở, ...) đã được quý vị Hòa
Thượng, Thượng Tọa trích dịch và phổ biến trong các tập sách riêng rẽ. Ðến năm
1973, Trung Bộ Kinh do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch được xuất bản lần đầu
tiên, dạng song ngữ Pàli-Việt.
Vào cuối năm 1992, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt
Nam phát hành toàn bộ Trung Bộ Kinh đã được hiệu chỉnh. Bộ kinh nầy gồm 3 tập, đóng
bìa cứng, chữ vàng, in trên giấy mỏng, rất đẹp. Ðây là một phần trong chương
trình phát hành Ðại Tạng Kinh bằng Việt ngữ, phiên dịch từ cả hai hệ: hệ Pali
và hệ Hán-Sanskrit. Song song với Trung Bộ Kinh do Hòa Thượng Thích Minh Châu
dịch, còn có phát hành bộ Trung A Hàm do Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức dịch,
gồm 4 tập.
Trong khi Trung Bộ Kinh gồm có 152 bài kinh
giảng thì bộ Trung A Hàm lại có đến 222 bài kinh. Tuy nhiên quý vị Hòa Thượng
dịch giả cũng có cho kèm một bản mục lục đối chiếu, so sánh các bài kinh trong
hai hệ văn tự. Từ đó, chúng ta thấy rằng việc kết tập kinh điển trong hệ
Sanskrit có phần khác chút ít so với hệ Pali: có nhiều bài kinh trong Trường
Bộ, Tương Ưng, Tăng Chi của hệ Pàli thì lại được hệ Sanskrit đưa vào Trung A
Hàm. Tuy nhiên cũng có một vài bài kinh trong Trung A Hàm mà không thấy kết tập
trong hệ Pàli. Vì vậy mà số lượng các bài kinh trong Trung A Hàm có phần nhiều
hơn so với Trung Bộ Kinh.
Bản Dịch Anh Ngữ
Bản dịch Anh ngữ có tên là The Middle
Length Discourses of the Buddha, Những Bài Giảng Cỡ Trung của Ðức Phật.
Gọi là cỡ trung vì các bài giảng nầy tương đối ngắn hơn, so với các bài giảng
dài được kết tập trong Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya, The Long Discourses),
nhưng lại tương đối dài hơn, so với các bài kinh trong các bộ Tương Ưng và Tăng
Chi.
Ðây là một bản dịch thứ hai bằng Anh ngữ. Trước
đó, vào năm 1954, bà I. B. Horner của hội Pali Text Society, London, đã dịch
bản đầu tiên, có tựa là "The Collection of The Middle Length
Sayings".
Song song với công tác dịch thuật của hội Pali
Text Society, Tỳ khưu Nanamoli của hội Buddhist Publication Society, Sri Lanka,
cũng tiến hành thực hiện một bản dịch khác, trong khoảng thời gian 1953-1956.
Tuy nhiên, sau khi hoàn tất bản thảo đầu tiên thì ngài viên tịch vào năm 1960.
Bản thảo đó được Tỳ Khưu Khantipalo xem lại, lựa chọn ấn hành 90 bài kinh quan
trọng nhất vào năm 1976, với tựa đề "A Treasury of the Buddha's
Words".
Từ đó, Tỳ khưu Bodhi, một nhà Phật học nổi tiếng
người Mỹ và là Chủ tịch hội Buddhist Publication Society, tiếp tục duyệt và
hiệu chỉnh các bản dịch, và đã hoàn tất công tác nầy vào năm 1995 với toàn bộ
152 bài kinh.
Bản Anh ngữ có phần phong phú và chi tiết hơn
các bản Việt ngữ. Ngoài phần dịch kinh, các dịch giả còn kèm theo phần giới
thiệu, 60 trang, về nguồn gốc và bố cục bộ kinh, về cuộc đời Ðức Phật và các
điểm căn bản của Phật Pháp trích từ bộ kinh. Sau đó là 15 trang tóm tắt từng
bài kinh một. Ðặc biệt hơn hết là phần chú thích gồm 200 trang, ghi chú và
giảng giải các chi tiết lịch sử của từng bài kinh, và cuối cùng là phần từ vựng
đối chiếu Pàli-Anh, rất hữu ích cho các nhà Phật học.
Sơ Lược Về Trung Bộ
Kinh
Có học giả cho rằng Trung Bộ Kinh, và Trung A
Hàm, là bộ kinh quan trọng nhất, bao gồm tất cả các tinh hoa và các pháp môn
căn bản của Ðạo Phật. Bộ kinh bao gồm các bài giảng quan trọng của Ðức Phật về
các pháp môn tu hành, tịnh tâm. Ngoài ra, bộ kinh còn giúp chúng ta thấy được
các sinh hoạt hằng ngày của Ðức Phật và Tăng Ðoàn trong 45 năm truyền đạo.
Mặc dù nhiều bài kinh trong Trung Bộ Kinh là để
giảng dạy các tu sĩ, chúng ta cũng thấy có nhiều bài kinh mà Ðức Phật giảng dạy
cho các thành phần khác trong xã hội, trong nhiều trường hợp và hoàn cảnh khác
nhau: từ các bậc vua chúa vương giả, chư thiên, các bậc chân tu khổ hạnh của
các giáo phái khác, cho đến những nông dân, thương gia, tướng cướp, học giả, và
các nhà hùng biện, v.v... Trong đó, chúng ta được dịp tìm hiểu và học tập những
pháp môn quan trọng của Ngài như: Tứ Diệu Ðế, Bát Chánh Ðạo, Vô Ngã, Niết Bàn,
Thập Nhị Nhân Duyên, Nghiệp Hành và Tái Sinh, Các Tầng Thiền-na, Các Pháp Quán
Niệm, Các Bậc Giải Thoát, Các Thế Giới Luân Hồi, v.v...
Bộ kinh không những chỉ kết tập các bài giảng
của Ðức Phật, mà cũng còn kết tập các bài giảng quan trọng của các vị đại đệ tử
của Ngài vào thời đó. Ngoài các bài kinh giảng của Ðức Phật, chúng ta còn thấy
9 bài kinh của ngài Xá Lợi Phất (Sariputra), 7 bài kinh của ngài A Nan
(Ananda), 4 bài của ngài Ðại Ca Chiên (Maha Kaccana), 2 bài của ngài Ðại Mục
Kiền Liên (Maha Moggallana) và một bài pháp thoại của Ni sư Dhammadinna được
Ðức Phật khen ngợi là bậc Ðại Trí Tuệ.
Nếu có dịp, tôi sẽ trình bài các bài giảng trong
Trung Bộ Kinh một cách chi tiết hơn. Ở đây tôi chỉ xin trân trọng giới thiệu
các bộ kinh vừa mới xuất bản nầy đến quý bạn đạo Phật tử để chúng ta cùng
nghiên cứu, học tập và hành trì.
-ooOoo-
Tham Khảo:
1. Bhikkhu Nanamoli and Bhikkhu Bodhi (1995),
"The Middle Length Discourses of the Buddha", Buddhist Publication
Society, Sri Lanka, ISBN 955-24-0121-6
2. Trung Bộ Kinh (1992), Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Sài Gòn.
3.Trung A Hàm (1992), Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Sài Gòn.
Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Trung Bộ
Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng PaliXem thêm: Kinh Trung Bộ - 1. Kinh Pháp Môn Căn Bản