Chương VII
TĂNG CHI BỘ KINH
(ANGUTTARA NIKĀYA)
(ANGUTTARA NIKĀYA)
Bộ sưu tập những bài kinh nầy, Tăng Chi Bộ Kinh chứa 9557 bài kinh
ngắn được chia thành mười một chương được gọi (Nipāta). Mỗi chương được chia lại thành nhiều
nhóm được gọi là phẩm (vagga) thường có mười bài kinḥ Những bài kinh
được sắp theo pháp số thứ tự lớn dần, mỗi chương gồm nhiều bài kinh có Pháp số,
bắt đầu với pháp số một lên đến pháp số mười một trong mỗi kinh của chương cuối
cùng. Từ đó tên là Tăng Chi nghĩa là 'tăng lên từng pháp số'. Chương đầu tiên
cho trong mỗi bài kinh mỗi pháp gọi là pháp số một; chương thứ hai trong mỗi
bài kinh chứa hai pháp gọi là pháp số hai và chương cuối được gom từ những bài
kinh có mười một pháp trong mỗi bài kinh gọi là pháp số mười một.
Tăng Chi Bộ Kinh thành cuốn sách có xuất xứ quan trọng về đạo
đức và tâm lý Phật Giáo, cung cấp một bản tóm tắt có liệt kê của tất cả các đặc
trưng tinh yếu liên quan đến lý thuyết và thực hành pháp.Một phẩm độc nhất vô
nhị có tựa đề là Phẩm Etadagga của chương Pháp số một liệt kê danh tánh chư vị
đệ tử xuất sắc nhất giữa hàng chư tỳ khưu , tỳ khưu ni, thiện nam và tín nữ,
những người đã thành đạt lỗi lạc nhất trong lãnh vực thành tựu hay làm việc
thiện, chẳng hạn đại đức Sāriputta trong Trí Tuệ ; Đại Đức Mahā Mogallāna trong Thần Thông; Tỳ Kheo Ni Khemā trong lãnh vực Trí Tuệ, Tỳ Kheo Ni Uppalavaṇṇa trong Thần Thông; Thiện nam Cấp Cô Độc
và Tín nữ Visākhā trong lãnh vực bố thí; và v.v...
*
(1) CHƯƠNG MỘT
PHÁP
(Ekaka Nipāta Pāḷi)
(Ekaka Nipāta Pāḷi)
Phẩm nầy chứa một pháp thành chủ đề của các bài kinh được Đức Phật
thuyết tại Sāvatthi cho nhiều tỳ khưu cư ngụ ở đó. Nhưng
vài bài Kinh được Đại Đức Sāriputta hay Đại Đức Ānanda thuyết.
- Không có sắc, thanh, hương, vị và xúc nào khác hơn sắc, thanh,
hương, vị và xúc của người đàn bà có thể giam cầm và làm xao lãng tâm trí của
người đàn ông; ngược lại không có sắc, thanh, hương, vị và xúc nào khác hơn
sắc, thanh, hương, vị và xúc của người đàn ông có thể giam cầm và làm xao tâm
trí của người đàn bà (đoạn 1-10).
- Không có gì đem tai hại và bất hạnh quá nhiều như tâm không rèn
luyện và phát triển. Tâm được rèn luyện và phát triển đem lại lợi ích và hạnh
phúc (đoạn 28-31).
- Không có gì thay đổi nhanh hơn tâm. Bản chất tâm là trong và
sáng; nó bị ô nhiễm bởi tham, sân và si (đoạn 48, 49).
- Nếu tỳ khưu thực hành thiền tâm từ, và phát triển nó ngay cả
trong thời gian ngắn bằng búng ngón tay, người ấy được xem như hành theo lời
khuyên của Đức Phật, làm theo lời ngài chỉ dẫn. Tỳ khưu như thế xứng đáng độ
thực phẩm được dân chúng dâng cúng (đoạn 53, 54).
- Chỉ có một người duy nhất xuất hiện trong đời đem lại lợi ích và
hạnh phúc cho nhiều người ,đem lại lợi ích cho chư thiên và nhân loại. Đơ chính
là Như Lai, bậc Toàn Giác.Thật không thể có hai bậc Toàn Giác xuất hiện đồng
thời trên cùng một hệ thống thế giới (đoạn 170-174).
- Đối với người có chánh kiến, nghĩa là Bậc Nhập Lưu, thật không
thể xem các pháp hữu vi là thường, lạc và ta (nicca,
sukha, atta).
- Nếu một pháp được phát triển và thường xuyên thực hành, thân
được an tịnh và tâm cũng an tịnh, không còn suy nghĩ lý luận, hết vô minh, trí
tuệ phát sanh, ảo tưởng về ngã được diệt trừ, những khuynh xấu cũng được trừ diệt,
các xiềng xích được loại bỏ. Pháp duy nhất đó là Niệm Thân (đoạn 571-576).
*
(2) CHƯƠNG HAI
PHÁP
(Duka Nipāta Pāḷi)
(Duka Nipāta Pāḷi)
- Có hai điều ghi nhớ trong tâm là: không bằng lòng với những gì
đã đạt được trong tiến trình phát triển tâm, nghĩa là ngay cả đắc các tầng
thiền hay coa ánh sáng bên trong (chỉ cho biết ở giai đoạn nào đó của thiền
tuệ), và kiên quyết đấu tranh không mệt mỏi và nỗ lực cho đến khi chứng ngộ mục
đích tối thượng, giải thoát. (đoạn 5)
- Có hai tiềm lực trong con người, làm điều thiện hay làm điều ác.
Thật có thể từ bỏ điều ác; từ bỏ điều ác đem lại lợi ích và hạnh phúc. Cũng có
thể huân tập điều thiện. Huân tập điều thiện cũng mang lại lợi ích và hạnh
phúc.(đoạn 19)
- Hai pháp đưa đến giải thoát trong hai cách: Thiền Định và Thiền
Tuệ. Nếu định phát triển, tâm cũng phát triển và tham ái không còn đưa đến kết
quả tâm giải thoát. Nếu tuệ quán phát triển, trí tuệ phát triển và vô minh tan
biến đưa đến kết quả tuệ giải thoát
- Có hai ân nhân mà người ta không bao giờ trả được: mẹ và cha.
Ngay cả nếu người đó có thể sống một trăm năm để phụng dưỡng cha mẹ chăm sóc
tận tình, thương yêu và phụ giúp mọi điều, người đó cũng không bao giờ trả hiếu
được cho cha mẹ được vì họ đã bảo dưỡng và dìu dắt người đó trong suốt cuộc
đời.Nhưng nếu người đó khiến cha mẹ những người không có đức tin thành người có
đức tin và quy y Phật, Pháp và Tăng; nếu người ấy làm cho cha mẹ không giữ giới
trở nên người thọ trì giới; nếu người ấy khiến cha mẹ có tính keo kiệt trở nên
rộng lượng hầu họ có thể san sẻ của cải họ cho người nghèo và người cần; nếu
người ấy khiến cha mẹ không biết gì về giáo pháp trở thành người hiểu biết Tứ
Diệu Đế, lúc đó người như thế mới có thể trả hiếu cho cha mẹ và trả nhiều hơn
những gì họ đã cho người ấy. (đoạn 33, 34)
- Có hai loại hạnh phúc: Hạnh phúc trong đời sống gia đình và hạnh
phúc trong đời sống vô gia dình.Hạnh phúc trong đời sống vô gia đình thù thắng
hơn.Hạnh phúc của các dục và hạnh phúc xả ly; hạnh phúc xả ly thù thắng hơn.
Hạnh phúc có cấu uế và hạnh phúc không ô uế;...Hạnh phúc nhục dục và hạnh phúc
không nhục dục... và hạnh phúc thấp hèn và hạnh phúc cao thượng;.... Hạnh phúc
thể xác và hạnh phúc tinh thần; hạnh phúc tinh thần là thú thắng hơn.(đoạn
65-71).
*
(3) CHƯƠNG BA
PHÁP
(Tika Nipāta Pāḷi)
(Tika Nipāta Pāḷi)
* Kẻ ngu có thể được nhận biết qua ba điều, bằng cách cư xử của nó
trong hành động, lời nói và tư tưởng; cũng vậy người trí cũng được biết qua ba
điều, qua cách ứng xử của người đó trong hành động, lời nói và tư tưởng. (đoạn
3)
* Có ba nơi một vị vua đang trị ví không nên quên:nơi sinh, nơi
đăng quang và nơi chiến thắng quân thù. Có ba nơi một vị tỳ khưu không nên
quên: nơi xuất gia, nơi thành tựu trí tuệ trong Tứ Thánh Đế và nơi đắc quả vị A
La Hán. (đoạn 12)
* Ai làm việc tích cực hết mình vào buổi sáng, trong ngày và vào
chiều tối, sẽ phát đạt, và trở nên giàu có; vị tỳ khưu cống hiến hết mình vào
việc phát triển định vào buổi sáng, trong ngàu và buổi chiều sẽ tiến bộ và
thăng tiến trong sự nghiệp phát triển tinh thần của vị ấy. (đoạn 13)
* Trên đời nầy có ba hạng người được tìm thấy: Một hạng có tâm như
vết thương há miệng; một có tâm như đền nháy; một hạng có tâm như kim cương.
Ai là người rất dễ nổi giận và dễ bị kích động, hiện ra sự tức
giận, căm thù và hờn dỗi; người như thế được cho là người có tâm như vết thương
há miệng.
Ai là người hiểu đúng Tứ Diệu Đế được cho là người có tâm như đèn
nháy. Ai là người đã huỷ diệt mọi ô nhiễm trong tâm và chứng ngộ sự giải thoát
tâm và giải thoát tuệ được cho là người có tâm như kim cương (đoạn 25)
* Trên đời nầy có ba loại người: người nói lời có mùi hôi thối khó
chịu; người nói lời có hương thơm, và người nói lời ngọt như mật. (đoạn 28)
* Có ba nhân căn để của sự phát sanh mọi hành động (nghiệp): Tham,
sân và si. Một hành động được làm bằng tâm tham, sân và si sẽ chín muồi bất cứ
ở cảnh giới nào người ấy tái sanh vào; và bất cứ ở đâu hành động đó chín muồi,
ở đó người ấy gặt quả (vipāka) của hành động đó,ở với nó trong đời
nầy, trong đời sau và trong nhũng vị lai. (đoạn 38)
* Người nào ngăn cản người khác bố thí, tức là ngăn cản và gây
chướng ngại cho ba người. Người ấy gây chướng ngại đến những việc thiện của thí
chủ; người ấy ngăn cản người nhận nhận tặng vật; người ấy phá ngầm và làm hại
tính cách của riêng mình. (đoạn 58)
* Ba nguy hiểm mà người mẹ không thể che chở cho con trai và con
trai không thể che chở cho mẹ: Già, bệnh và chết. (đoạn 63)
* Kinh Kesamutti cũng được biết như là Kinh Kālāma, xuất hiện như bài kinh
thứ năm trong Đại Phẩm của chương có Pháp Ba Số. Tại Kesamutta, một thành phố nhỏ trong vương quốc của
xứ Kosala, Đức Phật đã khuyên nhủ dân Kālāma ở trong thành phố nầy: "Chớ có
tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền
thống. Chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng, chớ có tin vì lý luận suy
diễn,, chớ có tin vì diễn giải tương tự, chớ có tin vì đánh giá hời hợt những
dữ kiện, chớ có tin vì phù hợp với định kiến, chớ có tin vì phát xuất từ nơi có
uy quyền, chớ có tin vì sa môn là bậc đạo sư của mình. Nầy Kālāma, khi nào tự mình biết
như sau: "Các pháp nầy là sai, bất thiện, thì từ bỏ chúng;Các pháp nầy là
pháp thiện, các pháp nào đó là đúng, thiện, tốt, thì chấp nhận chúng, và hành
theo chúng." (đoạn 66)
* Một vị tỳ khưu tận tuỵ với đời sống phạm hạnh nên chú tâm quân
bình vào ba yếu tố thay phiên nhau, đó là, định, tinh tấn và xả, và không chú
tâm quá vào duy nhất một pháp nào. Nếu vị ấy thường xuyên chú tâm vào mỗi pháp
nào trong chúng, tâm vị ấy sẽ trở nên mềm dẻo, dễ uốn, trong sáng và tập trung
tốt, sẵn sàng hướng tâm tới bất cứ trạng thái tâm nào đều có thể nhận thức được
nhờ trí tuệ siêu nhiên. (đoạn 103)
* Có ba người hiếm quý nhất trên đời: Như Lai là Bậc Toàn Giác là
hiếm có trên đời; người có thể tuyên thuyết Giáo Pháp và Giới Luật như đã được
Đức Phật giảng dạy là hiếm có trên đời nầy; và người biết ơn và đền ơn là người
hiếm có trên đời nầy.
* Cho dù Như Lai xuất hiện trên đời nầy hay không, sự kiện nầy vẫn
giữ duyên tồn tại một cách vững chắc , không thể thay đổi được rằng tất cả sự
hình thành các pháp hữu vi là vô thường, rằng tất cả sự hình thành các pháp hữu
vi là khổ, rằng tất cả các pháp đều vô ngã. (đoạn 137).
*
(4) CHƯƠNG BỐN
PHÁP
(Catuka Nipāta Pāḷi)
(Catuka Nipāta Pāḷi)
* Bốn người nầy được tìm thấy trong đời: người đi thuận dòng;
người thì đi ngược dòng; người đứng vững vàng, người đã vượt qua bờ kia và đứng
trên đất khô ráo.
Người nào đắm say dục lạc và phạm ác nghiệp là người là người đi
thuận dòng. Người không đắm say dục lạc hay không phạm ác nghiệp, mà sống đời
trong sạch trinh tiết, phấn đấu rất vất vả và khó khăn để làm được vậy, là
người đi ngược dòng. Người đứng vững vàng là người đã tận diệt năm hạ phần kiết
sử sẽ được hoá sanh vào cõi Phạm thiên, từ đó vị ấy chứng ngộ Niết Bàn mà không
từng trở lại dục giới. Người đã đến bờ kia đứng trên đất khô là người đã tận
diệt mọi lậu hoặc trong tâm, và, ai đã tự thân chứng ngộ, ngay trong kiếp sống nầy,
tâm giải thoát và tuệ giải thoát. (đoạn 5)
* Có bốn Chánh Tinh Tấn: (i)Tinh tấn nỗ lực tránh tâm ác và bất
thiện phát sanh; (ii) tinh tấn nỗ loại bỏ tâm ác, bất thiện đã phát sanh rồi;
(iii) tinh tấn nỗ lực khới sanh tâm tốt, thiện chưa sanh; (iv) tinh tấn nỗ lực
phát triển và thực hiện hoàn hảo tâm tốt, thiện đã sanh rồi. (đoạn 13)
* Như Lai nói như thế nào thì Như Lai làm như vậy; Như Lai làm như
thế nào thì Như Lai nói như vậy. Do đó được gọi là Như Lai (đoạn 23)
* Có bốn loại đức tin cao nhất: Như Lai, Bậc Toàn Giác và Tối
Thượng, là cao nhất trong tất cả chúng sanh. Trong tất cả các pháp hữu vi, Bát
Chánh Đạo là pháp cao nhất. Trong tất cả các pháp hữu vi và vô vi, Niết Bàn là
pháp cao thượng nhất. Trong tất cả các đoàn thể, Tăng Đoàn của Như Lai, Tăng
Đoàn gồm các bậc cao thượng bốn đôi, tám Bậc Thánh, là cao nhất.Đối với những
ai có đức tin trong những pháp cao nhất, đó là, Đức Phật, Con Đường, Niết Bàn
và Chư Thánh sẽ gặt hái được quả của nghiệp cao nhất cho họ. (đoạn 34)
* Có bốn cách ứng xử với các câu hỏi (i) Vài câu nên được trả lời
trực tiếp, (ii) Những câu khác nên được trả lời bằng cách phân tích chúng,
(iii) vài câu nên được trả lời bằng cách hỏi ngược lại, (iv) Cuối cùng, vài câu
hỏi nên chỉ đơn giản dẹp qua một bên. (đoạn 42)
* Có bốn loại xuyên tạc (vipallāsa) trong nhận thức, tư tưởng và quan
niệm. Nghĩ rằng có thường trong vô thường; cho rằng có hạnh phúc trong khổ;;
nghĩ rằng có ngã trong vô ngã; cho rằng có tịnh trong bất tịnh (đoạn 49)
* Khi Nakulapitā và Nakulamātā bày tỏ mong ước của họ đối với Đức
Phật là có tham vọng khác bao lâu đời sống hiện tại còn kéo dài và đời sống vị
lai cũng vậy, Đức Phật khuyên chúng cố gắng có cùng một đức tin, cùng một giới
hạnh, cùng bố thí và cùng trí tuệ; rồi họ sẽ đạt được như nguyện (đoạn 55-56)
* Người bố thí vật thực cho bốn pháp đến người nhận vật thực đó.
Người ấy cho họ trường thọ, sắc đẹp, hạnh phúc và sức mạnh. Chính thí chủ cũng
sẽ được trường thọ, sắc đẹp, an vui và sức mạnh bất cứ nơi nào người ấy được
sinh vào cõi người hay cõi trời (đoạn 57)
* Có bốn chủ đề không thích hợp với tư tưởng suy đoán (Acinteyyāni). Chúng là:
những phẩm tính đặc biệt của Đức Phật (Buddhavisayo);
việc đắc thiền của một người; quả của nghiệp và bản chất của thế giới tâm(lokacintā).
Những điều không thể nghĩ bfn nầy là không được nghĩ về; nếu nghĩ về chúng sẽ
dẫn người đó bị tâm thần và mất trí. (đoạn 77)
* Có bốn pháp liên quan mà không ai cho dù sa môn, bà la môn, chư
thiên, ma vương hay ai khác trong thế gian nầy có thể bảo đảm được:
- Đó là những gì phải chịu hoại
diệt không nên hoại diệt.
- Đó là những gì phải bệnh không nên ngã bệnh
- Đó là những gì phải chịu chết không nên chết; và
- Đó là không có quả nào đến trước do những ác nghiệp trước kia đã làm. (đoạn 182)
- Đó là những gì phải bệnh không nên ngã bệnh
- Đó là những gì phải chịu chết không nên chết; và
- Đó là không có quả nào đến trước do những ác nghiệp trước kia đã làm. (đoạn 182)
* Có bốn cách qua đó tính cách của một người có thể phán đoán:
Phẩm hạnh của người đó được người thông minh và có trí tuệ biết
bằng cách quan tâm kề cận sau khi sống chung với người đó một thời gian rất
dài. Phẩm chất trung thực của người đó có thể được người thông mnh và có trí
tuệ biết bằng cách giao dịch với người đó. Tính can đảm chịu đựng có thể được
người thông minh có trí tuệ biết bằng cách quan sát với sự chú tâm cận kề trong
thời kỳ khốn khổ. Trí tuệ của người đó có thể được người thông minh và có trí
tuệ biết khi nói chuyện với người đó về những đề tài khác nhau trong một thời
gian dài. (đoạn 192)
* Có bốn pháp đưa đến sự phát triển trí tuệ: thân cận với người
tốt; nghe Pháp hay; duy trì thái độ đúng của tâm và sống hành theo pháp. (đoạn
248).
*
(5) CHƯƠNG NĂM
PHÁP
(Pañcaka Nipāta Pāḷi)
(Pañcaka Nipāta Pāḷi)
* Có năm sức mạnh con người có được trong khi rèn luyện đạt được
thượng trí: tín, tàm quí, tinh tấn và trí tuệ. Vị ấy tin tưởng vào sự giác ngộ
của Đức Phật; vị ấy cảm thấy xấu hổ vì tà hạnh trong việc làm, lời nói và tư
tưởng; vị ấy sợ bất cứ điều xấu và bất thiện; vị ấy sanh khởi năng lượng để
diệt trừ mọi thứ bất thiện và đạt được mọi điều thiện ; vị ấy nhận thức các
hiện tượng thường xuyên sanh và diệt và như thế được tuệ quán trang bị, cuối
cùng sẽ dẫn đến Niết Bàn, chấm dứt khổ. (đoạn 2)
* Cũng có năm pháp khác, đó là tín, tấn, niệm, định và tuệ. Sức
mạnh của tín được thấy trong bốn phẩm chất đặc biệt của bậc Thánh Nhập Lưu; sưc
mạnh của tấn được thấy trong Chánh Tinh Tấn; sức mạnh của niệm được thấy trong
Tứ Niệm Xứ và sức mạnh của định được thấy trong bốn tầng thiền; sức mạnh của
tuệ được thấy trong sự nhận thức các hiện tượng thường sanh rồi diệt, tuệ mà
cuối cùng dẫn đến Niết Bàn. (đoạn 14)
* Các chất ô nhiễm làm hỏng vàng là sắc, thiếc, chì, bạc, và các
kim loại khác. Các chất ô nhiễm làm tâm ô nhiễm là tham dục, sân, hôn trầm thuỵ
miên, trạo cử hối quá và nghi. (đoạn 23)
* Người bố thí vật thực thù thắng hơn người không bố thí vật thực
về năm phương diện, về tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, danh tiếng và quyền lực, dù
cả hai đều được tái sanh vào cõi trời hay cõi người. Sự khác nhau về năm phương
diện nầy sẽ tiếp tục mãi cho đến khi giải thoát được đạt. Lúc đó không có sự
phân biệt giữa giải thoát của một người hay người khác hay giữa một a la hán
với một a la hán khác. (đoạn 31)
* Có năm điều quán tưởng mà mọi người, tỳ khưu hay cư sĩ, đàn ông
hay đàn bà phải thực hiện:
(i) 'Tôi chắc chắn phải già. Tôi không thể tránh tuổi già.
(ii) 'Tôi chắc chắn sẽ ốm yếu và bệnh hoạn. Tôi không thể tránh
khỏi bệnh tật.
(iii) 'Tôi chắc chắn phải chết. Tôi không thể tránh cái chết'
(iv) 'Tất cả những thứ yêu và thương sẽ không kéo dài lâu. Chúng
sẽ phải chịu sự thay đổi và phân ly.
(v) 'Nghiệp của tôi (hành động ở quá khứ và hiện tại) là tài sản
của tôi, nghiệp là người thừa kế của tôi, nghiệp là nhân duyên duy nhất của tôi
là, nghiệp là quyến thuộc của tôi, hộ trì duy nhất cho tôi. Bất cứ những hành
động nào tôi làm, tốt hay xấu, tôi sẽ trở thành người thừa kế của chúng. (đoạn
57)
* Năm tiêu chuẩn được thiết lập cho việc giảng dạy Pháp: Pháp nên
được dạy từ chưa biết đến biết, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó; Pháp được dạy
nên được dạy như những bài kinh có lý luận giỏi; Pháp nên được dạy vì lòng bi
mẫn và cảm thông; pháp không nên được dạy vì danh và lợi thế gian; Pháp nên
được dạy mà không ám chỉ chính mình hay ám chỉ người. (đoạn 159)
* Có năm cách để thoát khỏi sự uất: Nếu phẫn uất phát sanh đối với
bất cứ người nào, thì vị ấy nên tu tâm từ, bi hay xả đối với người đó. Hay vị
ấy không nên chú ý đến người đó và chớ nghĩ gì về người đó cả. Hay vị ấy có thể
dụng đến ý nghĩ rằng: Hành động của người đó là tài sản duy nhất của người đó;
bất cứ điều gì người đó làm, tốt hay xấu, người đó sẽ là người thừa kế những
hậu quả của hành động đó. Trong cách nầy, mọi phẩn phát sanh lên đều có thể
tiêu tan. (đoạn 161)
* Cư sĩ không nên sống theo các tà mạng sau đây: Buôn bán súng ống
và các loại vũ khí giết hại; buôn bán chúng sanh sống (nô lệ); buôn bán thịt;
buôn bán rượu và các chất say; buôn bán chất độc. (đoạn 177)
*
(6) CHƯƠNG SÁU
PHÁP
(Chakka Nipāta Pāḷi)
(Chakka Nipāta Pāḷi)
* Có sáu pháp không thể vượt trội: những pháp cao thượng nhất được
thấy, những pháp cao thượng nhất được nghe; đạt được pháp cao thượng nhất, học
pháp cao thương nhất, phục vụ pháp cao thượng nhất, và quán tưởng pháp cao
thượng nhất. Hình ănh Như Lai và chư vị đệ tử ngài là pháp cao thượng nhất được
thấy. Nghe Pháp từ kim khẩu của Như Lai hay chư vị đệ tử ngài là pháp cao
thượng nhất được nghe. Có đức tin trong sạch vào Như Lai và chư vị đệ tử ngài
là đạt cao thượng nhất. Học giới thù thắng (adhisīla),
phát triển tâm siêu việt (adhicitta) và trí tuệ siêu việt (adhipaññā) là học cao thượng nhất. Phục vụ Như
Lai và chư vị đệ tử ngài là phục vụ cao thượng nhất. Quán tưởng giới hạnh của
Như Lai và chư vị đệ tử ngài là quán tưởng cao thượng nhất. (đoạn 30)
* Có sáu loại khổ trên đời đối với người đắm say dục lạc: nghèo
khổ, mang ơn, nợ nần, nợ buộc phải trả, bị cưỡng bức bởi luật vua phép nước, tù
tội.
Tương tự trong giáo pháp của chư vị Thánh, người bị coi là nghèo
khổ và cơ cực là người thiếu đức tin vào những điều thiện, không có tàm quí,
không có tinh tấn và không hiểu pháp nào là tốt, và người cư xử tồi với chính
mình trong hành động, lời nói và tư tưởng. (đoạn 45)
* Có sáu bước để được giải thoát: thu thúc lục căn cung cấp nền
tảng cơ bản cho giới. Giới cung cấp nền tảng cho Chánh Định. Chánh Định cung
cấp nền tảng cho hiểu thực tướng của các hiện tượng tâm vật lý. Nhờ hiểu biết
bản chất thực của các hiện tượng tâm vật lý đưa đến sự từ bỏ và xả ly. Ở đâu có
từ bỏ và xả ly ở đó phát sanh trí tuệ và tri kiến giải thoát. (đoạn 50)
* Có sáu pháp được biết: Tham dục, thọ, tưởng, lậu hoặc (āsava), nghiệp và khổ nên được
biết, nhân duyên sanh khởi của chúng nên biết, sự thay đổi đa dạng của chúng
nên biết, hậu quả của chúng nên biết sự diệt của chúng và con đường dẫn đến sự
diệt của chúng nên được biết.
Con đường dẫn đến sự diệt của tất cả các pháp nầy là Bát Chánh
Đạo. (đoạn 63)
* Có sáu pháp xuất hiện rất hiếm trên đời: Hiếm thay có bậc Toàn
Giác xuất hiện trên đời; Hiếm thay có người giảng dạy Giáo Pháp và Giới Luật
như Đức Phật đã tuyên thuyết. Hiếm thay được tái sinh trong vùng đất của chư vị
Thánh; hiếm thay có lục căn hoàn hảo; hiếm thay không bị câm ngọng và ngu dốt;
hiếm thay có tâm ham thích làm việc phước thiện. (đoạn 96)
* Có sáu lợi ích khi chứng ngộ quả Nhập Lưu: (i) Tín tâm bất động
trong Pháp; (ii) không thể rơi trở lại; (iii) giới hạn khổ trong vòng luân hồi
(chỉ còn bảy kiếp nữa); (iv) có được trí tuệ siêu nhiên mà không thể chia xẻ
với người đời bình thường; (v) và (vi) hiểu biết rõ ràng nhân duyên và các hiện
tượng sanh khởi từ đó (đoạn 97)
*
(7) CHƯƠNG BẢY
PHÁP
(Sattaka Nipāta Pāḷi)
(Sattaka Nipāta Pāḷi)
* Có bảy yếu tố dành được sự tôn trọng và cung kính của chư huynh
đệ đồng đạo: không tham lợi; không muốn được người cung kính nhưng bàng quang
với chú ý; hổ thẹn làm điều xấu ác (tàm); sợ hãi điều xấu ác; và ít muốn; và có
chánh kiến. (đoạn 1)
* Vị tỳ khưu trở nên ruộng phước mấu mỡ, khi vị ấy biết văn bản
của Giáo Pháp, biết nghĩa của Giáo Pháp, cũng biết chính mình, biết giới hạn để
nhận vật cúng dường, biết đúng cho nhũng hoạt khác nhau, biết tâm lý của thính
giả, và biết khuynh tâm linh của mỗi người. (đoạn 68)
* Nếu vị tỳ khưu phát triển tâm trong Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ
Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Bảy Yếu Tố Giác Ngộ, Bát Chánh Đạo, vị ấy sẽ thoát
khởi lậu hoặc, không còn dính mắc gì cả, cho dù vị ấy muốn giải thoát hay
không. (đoạn 71)
* Đời người ngắn ngủi như giọt sương rơi trên đầu ngọn cỏ; như
bong bóng nước khi mưa rơi; như một đường được cái que vạch trên nước; như thác
nước trên núi, như cục nước miếng trên đầu lưỡi; như miếng mỡ được ném vào
trong chảo sắt cực nóng; và như con bò cái bị dẫn đi làm thịt, mỗi khi cất một
bước chân đi, sẽ càng gần đến người đồ tể, càng gần cái chết hơn. đoạn 74)
* Những pháp nào dẫn đến từ bỏ, hoàn toàn lánh xa thế tục, xả ly,
diệt và an tịnh, chánh trí, giác ngộ và Niết bàn -những pháp như thế có thể
được xem là Chân Pháp và giới Luật, như Giáo Pháp của Đức Phật (đoạn 83)
*
CHƯƠNG TÁM PHÁP
(Aṭṭhaka Nipāta Pāḷi)
(Aṭṭhaka Nipāta Pāḷi)
* Có tám lợi ích tích lũy từ pháp hành về tâm từ: Hễ ai hành thiền
tâm từ đều được ngủ ngon, thức dậy tươi, khoẻ, khoong bị ác mộng quấy rối, được
người và phi nhân cung kisng tôn trọng, được chư thiên theo hộ trì, không bị
lửa, thuốc độc và khí giới làm hại và khi chết nhất định được tái sanh vào cõi
trời Phạm Thiên. (đoạn 1)
* Có tám ngọn gió đời, sự thăng trầm vần xoay của cuộc đời:
được-mất, thành -bại, khen-chê, vui- khổ. (đoạn 546)
* Có tám lực: lực của đứa bé nằm trong tiếng khóc; của đàn bà
trong cơn giận; của kẻ cướp trong vũ khí của nó; của ông vua trong vương quyền
của nhà vua, của kẻ thiếu trí trong chỉ trích và chửi rủa; của bậc trí trong sự
suy xét cân nhắc cẩn thận về tiến hay thoái;của người có tri thức trong sự cẩn
trọng; và sức mạnh của vị tỳ khưu nằm trong sự can đảm và nhẫn nhục của vị ấy.
(đoạn 27)
* Tám đại quán tưởng của Đại Đức Anurudha về pháp: Pháp nầy dành cho người ít
muốn (thiểu dục) không phải dành cho người nhiều ham muốn (đa dục). Pháp nầy
dành cho người biết đủ, không phải dành cho người không biết đủ.. Pháp nầy dành
cho người thích độc cư, không phải cho người thích bầu bạn. Pháp nầy dành cho
người có chánh niệm tỉnh giác, không phải cho người bất cẩn. Pháp nầy dành cho
người có tâm tập trung, không phải cho tâm tán loạn. Pháp nầy dành cho người
trí, không phải cho người không có trí thông minh. Pháp nầy cho người vui thich
Niết Bàn, không phải cho người vui thích chuyện đời (ngã mạn, tham ái và tà
kiến) (đoạn 30)
* Bậc Thánh
có tám cách nói: Không thấy, vị ấy nói không thấy; không nghe vị ấy nói không
nghe; không cảm giác, vị ấy nói không cảm giác; không biết vị ấy nói không
biết. Đã từng thấy, vị ấy nói đã từng thấy; đã từng nghe, vị ấy nói đã từng
nghe; đã từng cảm giác, vị ấy nói đã từng cảm giác và đã từng biết vị ấy nói đã
từng biết. (đoạn 68).
*
*
(9) CHƯƠNG CHÍN
PHÁP
(Navaka Nipāta Pāḷi)
(Navaka Nipāta Pāḷi)
* Bậc A la hán không tham đắm trong chín pháp: Bậc A La Hán không
có ý định sát hại một chúng sanh nào; không lấy với ý định ăn cắp của không
cho; không hành dâm; không nói những gì không thật biết rằng nó không thật;
không hưởng lạc thú; không thành kiến vì ưa thích, vì sân hận, vì si mê hay vì
sợ. (đoạn 7).
* Nơi cư ngụ của người đời có chín đặc điểm mà vị tỳ khưu không
nên viếng thăm hay ở lại: Nơi vị tỳ khưu không được chào đón hay được tỏ ra
hoan hỷ hay được mời ngồi; nơi vật thực được cất giấu; nơi ít thì cho đi mặc
dầu nhiều cũng cung cấp được; nơi thực phẩm kém được dâng cúng mặc dầu có sẵn
thực phẩm tốt hơn; nơi vật dâng cúng được làm một cách không tôn kính; nơi
người đời không đến gần tỳ khưu để nghe pháp, và nơi khi giảng pháp cho thấy ít
quan tâm. (đoạn 17)
* Có chín cách trong đó hình thành sự phẫn uất: Nó đã hại ta, nó
đang hại ta, nó sẽ hại ta; nó đã hại người ta thương yêu, nó đang hại người ta
thương yêu, nó sẽ ahij người ta thương yêu; nó đã làm điều tốt cho người ta
không thích, nó đang làm điều tốt cho người ta không thích; nó sẽ làm điều tốt
cho người ta không thích. (đoạn 62)
* Có chín pháp nên được diệt trừ để hoàn thành việc chứng ngộ A La
Hán Quả: Tính dục, ác ý, sân hận, phẫn uất, vô ơn, đố kỵ, ghen tị, keo
kiệt.(đoạn 62)
*
(10) CHƯƠNG MƯỜI
PHÁP
(Dasaka Nipāta Pāḷi)
(Dasaka Nipāta Pāḷi)
* An trú trong giới có mười lợi ích: Người an trú trong giới cảm
thấy hài lòng; hài lòng nên cảm thấy vui; vui nên toại nguyện; toại nên cảm
thấy an tịnh, khi an tịnh thì cảm thấy an lạc; khi cảm thấy an lạc thì tâm vị
ấy tập trung; nhờ tâm tập trung, vị ấy thấy pháp như chúng đang là; thấy pháp
như chúng đang là, vị ấy trở nên vỡ mộng và bình thản đối với tất cả các pháp;
khi không còn đam mê hay dính mắc, vị ấy đạt được tâm giải thoát và tuệ giải
thoát. (đoạn 1)
* Có mười kiết sử: Thân kiến, (Sakkāyadiṭṭhi), hoài nghi, thực hành lầm lạc chỉ thuần
nghi thức và tế lễ như là Con Đường chân chánh (giới cấm thủ), tham dục, sân
hận, Sắc Ái và Vô Sắc Ái, ngã mạn, trạo cử (đoạn 112)
* Chỉ như người đàn ông hay đàn bà nhìn vào trong gương để tìm ra liệu
có vết bẩn nào trên mặt không, cũng vậy vị tỳ khưu cần thiết thỉnh thoảng tham
gia vào cuộc tự - khảo sát để thấy liệu có tham, sân, hôn trầm thuỵ miên sanh
trong tâm vị ấy không; liệu có lo lắng và hồi hộp, và nghi ngờ còn tồn tại
không; liệu vị ấy thoát khỏi sân và tâm vị ấy bị ô nhiễm bởi những tư tưởng bất
thiện hay không; liệu thân vị ấy có dễ chịu không bị trạo cử; liệu vị ấy bị
lười biếng hay không; và liệu vị ấy có tâm định với sự ý thức rõ ràng hay
không. (đoạn 51)
* Có mười pháp có được bởi người đã hoàn thành, bậc A La Hán:
Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định, Chánh Tuệ và Chánh Giải Thoát. (đoạn112)
*
(11) CHƯƠNG MƯỜI
MỘT PHÁP
(Ekādasaka Nipāta Pāḷi)
(Ekādasaka Nipāta Pāḷi)
* Có mười một loại huỷ hoại, bất cứ loại nào trong số nầy đều có
khả năng làm xảy vị tỳ khưu người chửi rủa chư tỳ khưu đồng đạo: vị ấy tinh tấn
nhưng thiếu tiến bộ; suy thoái từ giai đoạn đã thành tựu; vị ấy hiểu pháp nhưng
bị ô nhiễm và cấu uế; bị tính tự kiêu ngã mạn của mình khống chế; không an lạc
trong đời sống phạm hạnh; có khả năng phạm những tội lỗi trái với giới luật; có
khả năng trở lại đời sốnng tại gia, có khả năng bị khổ sở vì bệnh bất trị; có
khả năng bị rối loạn tâm thần; tâm lú lẫn hỗn loạn khi chết và có khả năng bị
đoạ địa ngục. (đoạn 6)
* Có mười một điều lợi ích rút ra từ việc huân tập và phát triển
tâm từ, khi thực hành thường xuyên và an trú vững vàng: vị ấy ngủ ngon và thức
giấc an lành không có ác mộng; vị ấy được người đời tôn kính, được phi nhân
kính trọng, được chư thiên hộ trì; không bị lửa, thuốc độc và khí giới làm hại;
tâm vị ấy dễ tập trung; nét mặt vị ấy trong sáng; vị ấy khi chết,t tâm sáng
suốt, không lú lẫn; nếu vị ấy không đắc quả vị A La Hán, vị ấy sẽ tái sanh vào
cõi Phạm Thiên. (đoạn 15)
-ooOoo-
Trích nguồn: budsas.org
Nhận xét
Đăng nhận xét