Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão Ajita

(XX) Ajita (Thera. 4) Khi bậc Ðạo Sư còn sống, ngài được sanh ở Sàvatthi con của một Bà-la-môn làm nghề đánh giá hàng hóa cho vua Kosala. Ngài trở thành một ẩn sĩ tu theo Bàvari, một vị Bà-la-môn có học thức ở vườn Kapittha trên bờ sông Godhàvarì. Bàvarì bảo ngài cùng vớiTissa và Metteya đi đến bậc Ðạo Sư. Ajita được đức Phật cảm hóa, và xuất gia. Lựa một đề tài để thiền quán, ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Ngài nói lên sự thắng trận của ngài với bài kệ này: 20. Ta không có sợ chết, Không ưa thích sanh mạng, Ta sẽ bỏ thân này, Tỉnh giác và chánh niệm. Bài viết được Đạo Bụt Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão Kula

(XIX) Kula (Thera. 4) Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn, xuất gia và vì tâm tư chưa được thăng bằng, ngài không chú tâm được trên một đề tài nhất định. Một ngày kia đi khất thực, ngài thấy người dẫn nước bằng cách đào cách kinh dẫn nước. Trong thành phố, ngài thấy người làm cung tên uốn nắn cung tên bằng nheo một con mắt như thế nào, và khi trở về với bình bát đầy đồ ăn, ngài thấy những người làm xe sửa soạn trục xe, bánh xe và vành xe như thế nào. Bước vào tịnh xá, dùng cơm xong, khi đang nghỉ trưa, ngài nghĩ đến ba phương pháp nhiếp phục này, và lấy chúng làm khích lệ và dùng chúng để tự mình tu tập, không bao lâu ngài chứng quả A-la-hán. Liên hệ những bài học này với sự tu tập tâm của mình, ngài nói lên lời chánh trí với bài kệ như sau: 19. Người trị thủy dẫn nước, Kẻ làm nên nắn tên, Người thợ mộc uốn gỗ, Bậc tự điều, điều thân. Bài viết được Đạo Bụt Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiến

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão Singala-pitar

(XVIII) Singàlar-Pitar (Thera. 5) Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong gia đình giàu có ở Sàvatthi, lập gia đình và đặt tên con là Singàlaka và tự mình được gọi là Singàla-pitar (cha của Singàla). Về sau ngài từ bỏ gia đình và xuất gia. Thế Tôn biết được căn cơ xu hướng của ngài, dạy ngài đề tài thiền quán là bộ xương người. Dùng đề tài này để thiền quán, ngài sống giữa các dòng họ Thích-ca ở Sumsumàragira, tại khu rừng Bhesaskalà. Trong rừng ấy, một thần rừng biết được ngài sẽ chứng được Thánh quả nên nói lên bài kệ này: 18. Hãy nhìn trong khu rừng, Rừng Bhesakala! Một Tỷ-kheo đang sống, Thừa tự lời Phật dạy, Ngang thân địa đại này, Tỏa khắp tưởng bộ xương. Ta nghĩ Tỷ-kheo ấy, Mau đoạn tận dục tham. Nghe bài kệ này, vị Trưởng lão nghĩ rằng: 'Vị thần rừng này muốn ta cố gắng tu tập', nên ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Về sau, ngài nhớ lại bài kệ của thần rừng này và nói lên lại bài kệ ấy như là lời tuyên bố về chánh trí của

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão Dasaka

(XVII) Dàsaka (Thera. 4) Do nghiệp của mình, ngài sanh vào thời dức Phật hiện tại, con của một người nô lệ củaAnàthapindika, và được giao việc gác cửa vào tịnh xá Jetavana. Ðược nghe đức tánh và nguyện vọng của ngài, ông Anàthapindika giải thoát cho ngài khỏi vòng nô lệ và ngài nói ngài sẽ sung sướng nếu được xuất gia. Do vậy, ngài được xuất gia ngay. Nhưng khi được xuất gia, ngài trở thành biếng nhác, thụ động, tiêu cực, không chịu cố gắng để thoát khỏi sanh tử, và ngủ quá nhiều sau các bữa ăn. Khi đến thời thuyết pháp, ngài lựa một chỗ ngoài vòng Tăng chúng, tìm một góc và ngồi ngáy. Thế Tôn nghĩ đến việc làm trước của ngài, nên nói lên bài kệ này để khích lệ ngài: 17. Ai hôn trầm, ăn nhiều, Nằm ngủ, lăn qua lại, Như heo lớn, ăn no, Kẻ ngu tiếp thai sanh. Khi nghe vậy, Dasaka trở thành dao động hốt hoảng và phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài suy nghĩ: 'Bài kệ của Thế Tôn đã khích lệ ta nhiều' và ngài nói lại bài kệ này. Như vậy, dầu cho b

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão Belatthasisa

(XVI) Belatthasìsa (Thera. 3) Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn. Trước khi đức Phật thành đạo, ngài đã xuất gia theo giáo đoàn của Kassapa ở Uruvelà và thờ lửa. Khi Kassapa được đức Phật giáo hóa, ngài là một trong ngàn người đệ tử củaKassapa chứng được quả A-la-hán, khi nghe đức Phật giảng kinh Adittápariyàyàsutta(Kinh Lửa Cháy). Sau ngài trở thành vị giáo thọ của Tôn giả Ananda. Một hôm, nghĩ đến sự an lạc thuần tịnh của quả chứng, và sự tu hành ban sơ của mình, ngài nói lên bài kệ diễn tả sự hân hoan của ngài: 16. Như vật hiền giống tốt Với sừng, kéo cái cày, Ði đứng không mệt nhọc, Cũng vậy, ta ngày đêm, Ði đứng không mệt nhọc, Ðược lạc không thế vật. Bài viết được Đạo Bụt Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali