Chuyển đến nội dung chính

Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn 5. Kinh Tiểu Bộ

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Ubirì

(XXXIII) Ubirì Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình khá giả quyền quí. Nàng rất đẹp và sanh được người con gái rất đẹp, đặt tên là Jivà. Vua thấy đứa con gái rất lấy làm hài lòng và đưa nàng lên làm hoàng hậu. Nhưng rồi đứa con gái Jivà bị chết, và bà mẹ ngày nào cũng đi đến nghĩa địa để than khóc. Một hôm nàng đi đến yết kiến bậc Ðạo Sư, nhưng rồi nàng đi ra bên sông Aciravàti và đứng than khóc. Bậc Ðạo Sư thấy vậy liền đến với nàng và hỏi: - Tại sao nàng khóc? Nàng đáp: - Bạch Thế Tôn, con khóc đứa con gái của con. Thế Tôn nói: - Tại nghĩa địa này có đến tám vạn bốn ngàn con gái của nàng bị thiêu. Vậy nàng khóc than cho ai!.

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Dantikà

(XXXII) Dantikà Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Sàvatthi trong gia đình vị giáo sĩ nhà vua. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng trở thành tín nữ ở Jetavana (Kỳ Viên) và về sau xuất gia, dưới sự chỉ đạo của Mahàpajàpati. Một thời khi đang ở Ràjagaha (Vương Xá), nàng leo lên núi Linh Thứu; và sau buổi ăn, khi đang còn ngồi nghỉ, nàng thấy một người nài điều khiển một con voi; và nhờ vậy nàng chứng quả A-la-hán; với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.  Về sau, vô cùng hân hoan với quả chứng của mình, nàng nói lên bài kệ như sau: 48. Ra khỏi ngôi tinh xá, Ðể nghỉ trưa ban ngày, Trên đỉnh núi Linh Thứu, Ta thấy một con voi,  Dầm nước xong đi lên,  Trên bờ một con sông. 49. Một người cầm cái móc, Yêu cầu đưa chân lên, Con voi duỗi chân ra, Và người leo lên voi. 50. Thấy kẻ chưa nhiếp phục, Ði đến được nhiếp phục, Ta thấy nó vâng chịu, Theo quyền lực của người. Như vậy, ta định tâm, Ði vào trong rừng ấy. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Uttarà Khác

(XXXI) Một Uttarà Khác Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào gia đình Bà-la-môn có danh tiếng ở Kosala. Ðến tuổi trưởng thành khi đang đi ở làng quê, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, nàng xuất gia, chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ.  Suy tư trên quả chứng, nàng nói lên bài kệ: 45. Bảy pháp giác chi này, Con đường đạt Niết-bàn, Tất cả ta tu tập, Như lời đức Phật dạy. 46. Do quán không vô tướng Ta đạt quả mong muốn, Ta thành con gái Phật, Sanh ra từ miệng Ngài, Luôn luôn ta hoan hỷ. 47. Trong an lạc Niết-bàn, Mọi dục được đoạn diệt, Dục trời và dục người, Vòng sanh hữu đoạn tận, Nay không còn tái sanh. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Uttama

(XXX) Uttama (Therì. 128)  Sau nhiều đời làm việc lành, nàng được sanh trong nhà một triệu phú ở Sàvatthi, trong thời đức Phật hiện tại. Khi nàng lớn tuổi, nàng nghe Patàcàrà thuyết pháp và xin xuất gia. Nhưng nàng chưa chứng được quả vị thiền quán. Patàcàrà biết được tâm trạng của nàng, nên thuyết giảng cho nàng và nhờ vậy nàng chứng quả A-la-hán với nghĩa tín thọ, pháp tín thọ. Suy tư trên quả chứng, nàng nói lên sự sung sướng của nàng.  42. Bốn lần và năm lần, Ta ra khỏi tinh xá. Nhưng tâm không an tịnh, Không nhiếp phục được tâm.  43. Ta đến Tỷ-kheo -ni,  Với ta đồng tín nữ, Nàng thuyết pháp cho ta, Với uẩn, xứ và giới.  44. Nghe xong pháp nàng thuyết, Như nàng đã dạy ta, Bảy ngày ngồi kiết-già, Ta thọ hưởng hỷ lạc, Mồng tám ta duỗi chân, Phá tan khối si ám.  Bài kệ trở thành lời tuyên bố về chánh trí của nàng. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Sàmà

(XXVIII) Sàmà (Therì. 127) Do làm các thiện sự trong các đời trước, trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Kosambi, trong một gia đình có danh vọng. Khi Samàvati, bạn thân của nàng chết, vì quá đau khổ, nàng xuất gia. Nhưng vì không nhiếp phục được đau khổ đối với bạn của nàng, nàng không nắm được con đường Thánh đạo. Một thời, khi ngồi nghe Tôn giả Ananda thuyết pháp, nàng chứng được Pháp nhãn và bảy ngày sau nàng chứng quả A-la-hán, với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ. Suy tư đến quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ này: 37. Bốn lần và năm lần, Ta ra khỏi tinh xá, Nhưng tâm không an tịnh, Không nhiếp phục được tâm. 38. Nhưng đến đêm mồng tám, Ái được ta nhổ sạch Chú tâm không phóng dật, Ta gắng thoát pháp khổ, Ái diệt, ta chứng đạt, Thành tựu lời Phật dạy. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Abhaya

(XXVII) Abhaya (Therì. 127) Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Ujenni, tại một gia đình quyền quý và trở thành bạn thân với mẹ của Abhaya. Khi nghe mẹ của Abhaya xuất gia, Abhaya vì thương mẹ của nàng nên cùng xuất gia theo. Cùng ở tại Ràjagaha (Vương Xá), một hôm nàng đi đến một khu vườn để quán bất tịnh. Bậc Ðạo Sư tại hương phòng, Ngài hiện cho nàng thấy đối tượng nàng muốn thiền quán. Thấy hình ảnh ấy, nàng hốt hoảng. Bậc Ðạo Sư phóng hào quang hiện ra như ngồi trước mặt nàng và nói lên bài kệ: 36. Hỡi này vô úy Ni! Thân này thật mỏng manh, Chính ở đây phàm phu, Ưa thích, thường tham đắm. Ta sẽ bỏ thân này, Tỉnh giác và chánh niệm Chú tâm không phóng dật, Ta gắng thoát pháp khổ, Ái diệt, ta chứng đạt, Thành tựu lời Phật dạy. Khi bậc Ðạo Sư nói xong, nàng chứng quả A-la-hán, hoan hỷ, nàng hướng các bài kệ về nội tâm như là những bài kệ nói lên cho mình. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Badumavati

(XXVI) Mẹ Của Abhayà (Therì. 127) Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh là một hoa khôi ở Ujjenì, tên là Badumavati. Vua Bimbisàra ở Magadha nghe tiếng và muốn gặp nàng. Với sự giúp đỡ của vị giáo sĩ của vua, vua được gặp nàng và nàng có thai với vua. Vua bảo khi nào nó lớn thì đưa vào cung. Nàng sinh được một đứa con trai, đặt tên là Abhaya (Vô Úy). Khi được bảy tuổi, nàng gửi con trai đến vua Bimbisàra và vua thương yêu nó và nuôi dưỡng nó với các người con khác của vua. Sau này đứa trẻ lớn lên tin theo đạo Phật, xuất gia, như đã được tường trình trong Trưởng lão Tăng Kệ. Về sau, mẹ của Abhaya nghe Abhaya thuyết pháp, cũng xin xuất gia và sau một thời gian tu hành, chứng được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ.  Nàng nhớ lại những câu kệ do con nàng giảng cho nàng và thêm vào những bài kệ của chính nàng: 33. Hỡi thân mẫu thân yêu! Từ bàn chân trở lên, Từ đầu tóc trở xuống, Hãy quán sát thân này, Thân này thật bất tịnh, Thật hôi hám thối tha

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Mittà

(XXV) Mittà (Therì. 127) Nàng được sinh ra trong gia đình công chúa Sakya (Thích-ca) ở Kapilavatthu, từ bỏ gia đình xuất gia cùng với Mahàpajàpati, rồi sau những năm tháng tu hành cần mẫn, nàng chứng được quả A-la-hán nghĩ đến thành quả của mình, nàng vui vẻ nói lên những bài kệ này: 31. Ngày mười bốn, ngày rằm, Ngày mồng tám giữa tháng, Ngày thần túc nguyệt phần, Ta thọ trì tám giới. 32. Ta gìn giữ trai giới, Khiến chư Thiên hoan hỷ, Mỗi ngày ăn một bữa, Cạo đầu đắp đại y, Ta đâu muốn thiên giới, Ta nhiếp phục tâm khổ. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Città

(XXIII) Città (Therì. 126) Nàng được sanh vào một gia đình ưu tú ở Ràjagaha (Vương Xá), khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp ở cửa thành Ràjagaha, trở thành một tín nữ và được Mahàpajàpati cho xuất gia. Sau khi nàng về già, trong khi leo núi Linh Thứu, với thiền quán được phát triển, nàng chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ đến kết quả này, nàng nói lên bài kệ: 27. Dầu ta có mỏi mệt, Bệnh hoạn quá yếu đuối, Dựa trên gậy ta đi, Ta leo lên đỉnh núi. 28. Với đại y vắt ngang, Với bình bát lộn ngược, Ta dựa mình tảng đá, Phá tan khối si ám. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Addhakasi

(XXII) Addhakasi (Therì. 126) Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở xứ Kàsi con của một công dân giàu có và có danh tiếng. Nhưng vì ảnh hưởng của khẩu nghiệp của đời trước nàng trở thành một kỹ nữ. Về sau nàng xuất gia và được làm lễ xuất gia với một vị đại diện đặc biệt được ghi trong tập Cùla vagga (Tiểu phẩm) Nàng muốn đi đến Sàvatthi để được xuất gia nhưng bị dân làng ăn chơi ở Benereeschận đường không cho nàng đi. Nàng cho người đến hỏi ý kiến Thế Tôn và Thế Tôn cho phép nàng được xuất gia với một vị đại diện đặc biệt. Rồi nàng nhứt tâm quán tưởng và không bao lâu chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Rồi nàng nói lên bài kệ như sau: 25. Tiền lạc thú của ta, Không thua thuế Kàsi, Sau khi so sánh giá, Thôn trưởng định giá vậy. 26. Nay ta lại nhàm chán, Chính sắc đẹp của ta, Ta chán ngấy sắc ấy, Ta không còn luyến tiếc. Ta chớ có liên tục, Chạy theo vòng luân hồi, Ba minh ta chứng được, Thành tựu lời Phật dạy. Bài viết

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Mẹ Của Sumangala

(XXI) Mẹ Của Sumangala (Therì. 126) Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình nghèo và được gả lấy một người đan mây làm chồng. Nàng sanh được một người con trai tên Sumangala, sau trở thành bậc Trưởng lão và chứng quả A-la-hán. Nàng không được biết tên và được gọi là một Trưởng lão Ni không có tên hay mẹ của Sumangala. Nàng trở thành một Tỷ-kheo-ni và một hôm nghĩ đến sự đau khổ khi còn là cư sĩ, nàng cảm thấy xúc động và với thiền quán phát triển, nàng chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, nàng nói lên bài kệ như sau: 23. Hỡi thiện giải thoát Ni, Lành thay khéo giải thoát, Ta được khéo giải thoát, Khỏi cái chày giã gạo, Ta không còn xấu hổ, Với ông chồng đan dù, Với soong chảo nấu ăn, Với nghèo đói tồi tàn. 24. Chặt đứt được tham sân, Ta sống không tham sân, Ta đi đến gốc cây, Ôi, an lạc ta thiền. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Abhirùpa Nandà

(XIX) Abhirùpa Nandà (Therì. 125) Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Kapilavatthu, con gái vợ chính của vuaKhemaka, dòng họ Thích-ca (Sakya), tên là Nandà. Vì nàng rất đẹp nên được tên là Abhirùpa Nandà (Nandà đẹp). Ngày nàng lựa Carabhùta làm chồng, thời Carabhùta mệnh chung và cha mẹ cưỡng bức nàng xuất gia. Sau khi đã xuất gia, nàng vẫn tự kiêu với sắc đẹp của nàng, và sợ bậc Ðạo Sư quở trách, nàng lẫn tránh Ngài. Thế Tôn biết được hạnh nàng đã thuần thục nên bảo Mahàpajàpati quy tụ mọi Tỷ-kheo-ni lại để Ngài dạy bảo, nàng nhờ người khác đi thế. Ðức Phật không chấp nhận nên nàng phải đến dự. Ðức Phật hóa sanh một nữ nhân rất đẹp, nhưng dần dần bị già nua, yếu hèn và nàng bị xúc động mạnh. Rồi đức Phật nói với nàng những bài kệ như sau: 19. Này Nandà, hãy nhìn, Tấm thân chỗ quy tụ, Nhiều bệnh hoạn, bất tịnh, Ðầy hôi hám thối nát, Tâm nàng hãy tu tập, Quán tri tánh bất tịnh, Ðạt cho được nhất tâm, Tâm tư khéo thiền định. 20. Hãy tu tập vô tướng,

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Dhammà

(XVII) Dhammà (Therì. 125) Sau khi chất chứa công đức trong nhiều đời, nàng được sanh trong một gia đình quyền quý dưới thời đức Phật hiện tại. Sau khi lấy chồng, nàng được cảm hóa theo đạo Phật, xin xuất gia nhưng người chồng không bằng lòng. Nàng chờ cho khi chồng mất, mới xuất gia. Một hôm, sau khi khất thực, trên con đường về tinh xá, nàng mất thăng bằng bị ngã. Dùng sự kiện ấy để thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Trong sự vui sướng, nàng nói lên bài kệ; 17. Sau khi khất thực xong, Yếu sức, chống trên gậy, Với chân tay run rẩy, Ta ngã trên mặt đất, Thấy nguy hiểm của thân, Tâm ta được giải thoát. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Sumànà

(XVI) Sumànà Xuất Gia Khi Tuổi Già (Therì. 125) Trong thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ở Sàvatthi làm chị của vua Kosala. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, bắt đầu với bốn chữ: 'Có bốn loại trẻ tuổi không nên khinh thường...' (S. I, 68), nàng khởi lên lòng tin, thọ tam quy và ngũ giới. Vì mắc hầu hạ bà ngoại, nàng không xuất gia được. Sau khi bà ngoại mất, nàng cùng đi với vua tới tịnh xá, đem theo nhiều màn, nhiều vải cúng dường giáo hội. Nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, nàng chứng được quả Bất hoàn và xin được xuất gia và Thế Tôn thấy được sự trưởng thành trong trí tuệ của nàng nên nói lên bài kệ này: 16. Hỡi này, lão Ni kia, Hãy an lạc nằm nghỉ, Ðắp phủ trong tấm y, Chính tự mình làm lấy, Lòng tham người an tịnh, Người mát lạnh tịch tịnh. Khi đức Phật nói xong, nàng chứng được quả A-la-hán, với thấu triệt pháp, thấu triệt nghĩa. Trong sự sung sướng nội tâm, nàng lập lại những câu kệ này và chúng trở thành lời tuyên bố chánh trí của nàng. Rồi nàng được xu

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Dhammadinnà

(XII) Dhammadinnà (Therì. 124) Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình ở Ràjagaha (Vương Xá) và trở thành vợ của Visàkha, một người có địa vị trong xã hội. Một ngày kia, chồng nàng đi nghe đức Phật thuyết pháp, chứng được quả Bất lai. Khi Visàkha về, Dhammadinnà đưa tay ra đỡ chồng lên gác, nhưng người chồng không nắm tay và không nói với nàng trong bữa ăn chiều. Nàng hỏi chồng duyên cớ, người chồng nói không phải vì lỗi gì của nàng, nhưng nay vì đã hiểu được Chánh pháp nên không còn những cử chỉ như trước nữa.  Người chồng trả quyền tự do cho nàng, một là ở lại gia đình người chồng, hai là lấy tiền bạc rồi về lại gia đình cha mẹ, nhưng nàng không chịu, và xin được xuất gia. Visàkha đưa nàng đến các Tỷ-kheo-ni trong một chiếc kiệu vàng. Ðược cho phép xuất gia, nàng xin sống nhập thất, không muốn sống chung đụng ồn ào và đi đến một tinh xá ở làng. Tại đấy, nhờ những thiện nghiệp quá khứ, nàng chế ngự thân, miệng, ý, chứng được quả A-la-hán, với Tứ vô ngạ

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Muttà

(XI) Muttà (Therì. 123) Nhờ tích lũy các thiện nghiệp dưới thời các đức Phật khác, Muttà được sinh ở Kosalà, con gái của một Bà-la-môn nghèo tên là Oghàtaka. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng phải làm vợ một người Bà-la-môn còm, nhưng nàng thưa với chồng rằng nàng không thể sống trong gia đình và được chồng bằng lòng cho nàng xuất gia. Trong khi thiền quán, tâm tư vẫn chạy theo các đối tượng ở ngoài. Do vậy, nàng kiên trì tự chế ngự và đọc lên bài kệ của nàng. Nàng tinh tấn thiền quán cho đến khi nàng chứng được quả A-la-hán. Rồi hân hoan nàng lập lại bài kệ: 11. Lành thay giải thoát Ni, Ta thật khéo giải thoát, Giải thoát ra khỏi được, Ba vật còm và cong, Thoát cối xay, cái chày, Thoát ông chồng lưng còm, Hỡi này giải thoát Ni! Ta thoát được sống chết, Những gì dẫn tái sanh, Ðược nhổ lên tận gốc. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Tissà

(IV) Tissà (Therì. 123) Bài kệ sau này là của Tissà, một giới học nữ trải qua nhiều đức Phật, nàng tích lũy các công đức, và trong đời đức Phật hiện tại, nàng được tái sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) trong gia đình quý tộc Thích-ca, được tuyển vào nội cung của vị Bồ-tát. Nàng cùng với Mahàpajàpati xuất gia và tu tập thiền quán. Bậc Ðạo Sư hiện ra trước nàng và nói lên bài kệ: 4. Tissà hãy học tập, Học trong những học pháp, Chớ để cho các ách, Vượt khỏi chi phối nàng. Hãy sống không liên hệ, Mọi ách không trói buộc, Sống giữa thế giới này, Không có các lậu hoặc. Và nàng nghe bài kệ này, được tăng trưởng thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó nàng thường đọc lên bài kệ này. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Punnà

(III) Punnà (Therì. 123) Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm con một gia đình trưởng giả ở Sàvatthi và tên là Punnà. Khi nàng đến hai mươi tuổi và nghiệp duyên thành thục, nàng nghe Mahàpajàpati thuyết pháp và xuất gia. Khi trở thành một giới học nữ, nàng bắt đầu thiền quán, và bậc Ðạo Sư từ nơi hương phòng của Ngài phóng hào quang và nói lên bài kệ này: 3. Hỡi này, thành Mãn ni, Hãy tràn đầy Chánh pháp, Như mặt trăng tròn đầy, Trong ngày rằm trăng tròn, Hãy tràn đầy trí tuệ, Phá tan khối si ám. Sau khi nghe bài kệ này, thiền quán được tăng trưởng và nàng chứng quả A-la-hán. Bài kệ này nói lên lòng phấn khởi và xác chứng chánh trí của nàng. Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ Kinh Tiểu Bộ Do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni Muttà

(II) Muttà (Therì. 123) (Bài kệ này Thế Tôn thường nói lên để khích lệ Muttà khi nàng còn đang học tập). 2. Hỡi này, giải thoát Ni Hãy giải thoát các ách, Như mặt trăng thoát khỏi, Miệng hàm của Ràhu, Với tâm tư giải thoát, Khỏi nợ nần trói buộc, Hãy thọ hưởng món ăn, Do khất thực đem lại. Ðây là bài kệ của giới học nữ Muttà. Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh làm con gái của một Bà-la-môn, có danh vọng ỏ Sàvatthi. Ðến năm hai mươi tuổi, các điều kiện chín muồi, nàng xuất gia dưới sự hướng dẫn của Mahàpajàpati Gotami, và học tập thiền quán. Một hôm, sau khi khất thực, sau khi làm các phận sự đối với các Trưởng lão Ni xong, nàng tìm một chỗ thanh vắng để ngồi thiền, tập trung tư tưởng vào nội tâm. Rồi bậc Ðạo Sư, ngồi trong hương phòng ở tinh xá phóng ra hào quang, xuất hiện trước mặt nàng và nói lên bài kệ trên. Còn nàng, vững tin với lời giáo giới ấy, không bao lâu chứng được quả A-la-hán và khi chứng quả nói lên lại bài kệ này. Sau khi tu hành thà

Kinh Tiểu Bộ - Trưởng lão ni không biết tên

Trưởng Lão Ni Kệ (I) Bài Kệ Này Do Một Trưởng Lão Ni Không Biết Tên Nói Lên (Therì. 123) 1. Hãy ngủ trong an lạc Hỡi nàng thân đẫy đà, Ðắp phủ trong tấm y, Chính mình tự làm lấy, Lòng tham, nàng lắng dịu, Như ghè khô trong lò! Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh trong một gia đình ở Vesàli (Tỳ-xá-ly). Vì thân hình đẫy đà, nàng được gọi là nàng đẫy đà. Nàng trở thành người vợ trung thành của một người quý tộc. Khi bậc Ðạo Sư đến Vesàli, nàng tin tưởng giáo pháp của đức Phật và trở thành một nữ cư sĩ. Khi nàng nghe Trưởng lão Ni Mahàpajàpati thuyết pháp, nàng muốn xuất gia và thưa với chồng ý nguyện của nàng. Người chồng không cho, nên nàng tiếp tục làm tròn bổn phận của nàng, suy tư đến những lời dạy dịu dàng của giáo pháp và chú tâm đến thiền quán. Rồi một ngày kia, trong khi đang ở trong bếp và nấu món ăn, một ngọn lửa mạnh bừng cháy và thiêu tất cả món ăn với những tiếng cháy xèo xèo, nàng lấy đó làm đề tài để thiền quán về tánh vô thường của sự vật,