Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 9 - Tương Ưng Thí Dụ (1)

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 2 - Chương 9 - Tương Ưng Thí Dụ (1)

PHẦN CHÁNH KINH

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 2
[20] Chương IX: Tương Ưng Thí Dụ

I. Chóp Mái (S.ii,262)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

2) Ở đây, Thế Tôn nói như sau:

3) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, một ngôi nhà có nóc nhọn cao, phàm có những cây kèo xa nào, tất cả chúng đều đi đến góc nhọn, đều quy tựa vào góc nhọn, đều châu đầu vào góc nhọn, tất cả chúng đều đâm đầu vào một gốc.

4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những bất thiện pháp nào, tất cả chúng đều lấy vô minh làm cội rễ, đều lấy vô minh làm điểm tựa, đều châu đầu vào vô minh, tất cả chúng đều đâm đầu vào một gốc.

5) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta hãy sống không phóng dật".

II. Ðầu Ngón Tay (Tạp, Ðại 2. 345a) (Ðơn tạp 22. Trảo Thổ, Ðại 2, 498a) (S.ii,263)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) Rồi Thế Tôn lấy một ít đất trên đầu móng tay và nói với các Tỷ-kheo:

3) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Cái gì nhiều hơn, chút đất này Ta lấy trên đầu móng tay, hay quả đất lớn này?

4) -- Cái này, bạch Thế Tôn, là nhiều hơn, tức là quả đất lớn này và ít hơn là chút đất mà Thế Tôn lấy trên đầu móng tay. Không thể đi đến ước tính, không thể đi đến so sánh, không thể đi đến một vi phần, khi so sánh quả đất lớn với chút đất mà Thế Tôn lấy trên đầu móng tay.

5) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, rất ít là chúng sanh được tái sanh làm người! Còn rất nhiều là những chúng sanh phải tái sanh ra ngoài loài Người!

6) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng tôi sẽ sống không phóng dật".

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

III. Gia Ðình (Tạp, 47.14, Nhơn Gia, Ðại 2, 344c) (S.ii,263)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, những gia đình nào có nhiều phụ nữ và ít đàn ông, thời những gia đình ấy rất dễ bị các đạo tặc, trộm ghè não hại.

3) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không tu tập từ tâm giải thoát, không làm cho sung mãn, thời vị ấy dễ bị phi nhân não hại.

4) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, những gia đình nào có ít phụ nữ và nhiều đàn ông, thời gia đình ấy khó bị các đạo tặc, trộm ghè não hại.

5) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, thời vị ấy rất khó bị phi nhân não hại.

6) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện".

Như vậy, này các Tỷ-kheo các Ông cần phải học tập.

IV. Cái Nồi (Tạp, Ðại 2, 344b) (S.ii,264)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Này các Tỷ-kheo, ai vào buổi sáng bố thí một trăm cái nồi, ai buổi trưa bố thí một trăm cái nồi, hay ai buổi chiều bố thí một trăm cái nồi, và ai buổi sáng chỉ trong thời gian bóp vú sữa con bò một lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm giải thoát, hay ai buổi trưa chỉ trong thời gian bóp vú sữa con bò một lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm giải thoát, hay ai buổi chiều chỉ trong thời gian bóp vú sữa con bò một lần (trong nháy mắt), tu tập từ tâm giải thoát, sự việc này đối với sự việc trước, quả có lớn hơn.

3) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện".

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

V. Cây Lao (Satti) (Tạp, Ðại 2, 344c) Sakti, S.(Hoernh, 1.44-45) (S.ii,265)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, một cây lao có lưỡi sắc bén. Rồi một người đến và nói: "Với tay hay với nắm tay, tôi sẽ bẻ gập đôi lưỡi sắc bén của cây lao này, tôi sẽ đánh phía cạnh cho nó quặp dài lại, tôi sẽ uốn cong nó lại".

3) Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể với tay hay nắm tay bẻ gập đôi lưỡi sắc bén của cây lao này, đánh phía cạnh cho nó quặp dài lại, uốn cong nó lại không?

-- Thưa không, bạch Thế Tôn.

4) Vì sao?

Bạch Thế Tôn, không dễ gì, với tay hay nắm tay bẻ gập đôi lưỡi sắc bén của cây lao này, đánh phía cạnh cho nó quặp dài lại, uống cong nó lại, mà không khiến cho người ấy mệt nhọc và bị não hại.

5) -- Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi một ai (vị Tỷ-kheo) tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện, thời một phi nhân nào nghĩ rằng, có thể đánh ngã một tâm như vậy, kẻ phi nhân ấy ở đây sẽ mệt nhọc và bị não hại.

6) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng tôi sẽ tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, an trú, tích lũy và khéo thực hiện".

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

VI. Người Bắn Cung (Tạp 24.9, Cung, Ðại 2, 171c) (S.ii,265)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2) -- Ví như, này các Tỷ-kheo, bốn người bắn cung dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật, đứng tại bốn phương.

3) Rồi một người đến và nói rằng: "Ta sẽ nắm bắt và đem lại những mũi tên được bắn đi bốn phương, trước khi chúng rơi xuống đất, do bốn người bắn cung này bắn đi, những người dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật".

4) -- Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Như vậy có vừa đủ chăng để gọi người nhanh nhẹn ấy đầy đủ với sự nhanh nhẹn tối thượng?

5) -- Bạch Thế Tôn, nếu chỉ từ một người bắn cung dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật, có thể nắm bắt và đem lại một mũi tên được bắn đi, như vậy là vừa đủ để gọi người nhanh nhẹn ấy, đầy đủ với sự nhanh nhẹn tối thượng. Còn nói gì từ bốn người bắn tên, dõng mãnh, lão luyện, thuần tay, thiện xảo về cung thuật!

6) -- Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là sự nhanh nhẹn của người ấy. Và như vậy là sự nhanh nhẹn của mặt trăng, mặt trời, còn nhanh hơn sự nhanh nhẹn trước. Và như vậy, này các Tỷ-kheo là sự nhanh nhẹn của người ấy, và như vậy là sự nhanh nhẹn của mặt trăng, mặt trời, và như vậy là sự nhanh nhẹn của các chư Thiên chạy trước mặt trăng, mặt trời. Còn nhanh nhẹn hơn là sự biến diệt của thọ hành (thọ mạng của các sự vật).

7) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng tôi sẽ sống không phóng dật".

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

VII. Cái Chốt Trống (Tạp 47.18, Cổ, Ðại 2, 315b) (S.ii,166)

1) ... Trú ở Sàvatthi.

2)-- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, dân chúng Dasàrahà có một cái trống tên là Anaka.

3) Khi cái trống Anaka bắt đầu nứt ra, dân chúng Dasàrahà đóng vào một cái chốt khác. Cho đến một thời gian, này các Tỷ-kheo, cả cái thùng ván của trống Anaka biến mất và chỉ còn lại những cái chốt tụ tập lại.

4) Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo sẽ thành trong tương lai.

5) Những bài kinh nào do Như Lai thuyết, thâm sâu, nghĩa lý thâm diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không, họ sẽ không nghe khi các kinh ấy được thuyết giảng; họ sẽ không lóng tai; họ sẽ không an trú chánh tri tâm, và họ sẽ không nghĩ rằng các pháp ấy cần phải học thuộc lòng, cần phải thấu đáo.

6) Còn những bài kinh nào do các thi sĩ làm, những bài thơ với những danh từ hoa mỹ, với những câu văn hoa mỹ, thuộc ngoại điển, do các đệ tử thuyết giảng, họ sẽ nghe khi các kinh ấy được thuyết giảng; họ sẽ lóng tai; họ sẽ an trú chánh tri tâm và họ sẽ nghĩ rằng, các pháp ấy cần phải học thuộc lòng, cần phải học thấu đáo. Như vậy, này các Tỷ-kheo, các kinh do Như Lai thuyết, thâm sâu, nghĩa lý thâm diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không sẽ đi đến tiêu diệt.

7) Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: "Những bài kinh nào do Như Lai thuyết giảng, thâm sâu, nghĩa lý thâm diệu, xuất thế gian, liên hệ đến không, chúng tôi sẽ nghe khi các kinh ấy được thuyết giảng; chúng tôi sẽ lóng tai; chúng tôi sẽ an trú chánh tri tâm. Và chúng tôi sẽ nghĩ rằng, các pháp ấy cần phải học thuộc lòng, cần phải học thấu đáo".

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 2
Chương 9: Tương Ưng Thí Dụ

Nội dung các kinh:

Kinh 1: vai trò của vô minh.
Kinh 2: sự khó làm người.
Kinh 3: giá trị của từ tâm.
Kinh 4,5: cũng về từ tâm.
Kinh 6: nói về sự ngắn ngủi của đời sống.
Kinh 7: nói về tương lai của Phật pháp.

1. CHÓP MÁI

Kinh này nói về Vô Minh. Do vô minh trong Tứ Đế mà bắt đầu dòng sinh tử của mình. Vòng Duyên khởi là vòng tròn khép kín không có điểm bắt đầu, nhưng điểm đặc biệt để dễ hình dung đó là vô minh. Từ vô minh trong Bốn Đế dẫn đến ba hành… nhưng cuối cùng cũng quẩn quanh trong Tam giới, vì vậy Đức Phật dạy vô minh là gốc của sinh tử là gốc của mọi sự.

2. ĐẦU NGÓN TAY

Kinh này nói về sự khó làm người. Bên cạnh ví dụ con rùa mù, Đức Phật dạy rằng có sự chênh lệch rất lớn giữa chút xíu đất trong đầu ngón tay mình và trọng lượng đất của hành tinh này. Vậy mà số chúng sanh được sanh trở lại làm nhân loại ít như đất trong móng tay, còn số chúng sanh không được trở lại làm người thì nhiều như đất của cả hành tinh. 

Có chút hiểu biết về đời về đạo thì thấy điều này cũng không quá. Diện tích, chu vi, trọng lượng của trái đất là bao nhiêu, số người có thể đếm được. Bảy tỷ không phải là con số lớn. Cho dù là bảy ngàn tỷ cũng là con số có thể đếm được. Trong khi đó, loài động vật mình nhìn thấy được trên hành tinh này thì đếm làm sao cho xuể. Chỉ nghĩ bao nhiêu đó là thấy Đức Phật nói đúng hay là không. Quí vị có bao giờ từng thấy một khối cầu là bầy cá biển di chuyển trong lòng đại dương? Đó chỉ là cá. Chưa kể những loài côn trùng, bà con nào ở miền Tây Nam Bộ sáng ra đồng thấy con bù mắt, rồi các loài kiến, mối, chưa kể những loài li ti và khuất mặt siêu hình. Để mang được thân người không phải là chuyện dễ, bởi anh sống với tâm hồn của loài nào thì anh sẽ đi về với loài đó.

Một ngày hăm bốn giờ, tâm từ bi, trí tuệ, kham nhẫn, hành xả tinh tấn, thiền định, chánh niệm được bao nhiêu phút? Trong ngày mình có bao nhiêu phút sống bằng tâm tham, sân, si. Chỉ nghĩ như vậy là biết mai mốt mình đi về đâu. Mai mốt mình học kinh Tăng Chi, Đức Phật dạy chỗ nào mình sống bằng tâm tham, sân, si thì đó là chỗ ở của cọp beo, rắn rít (sân), chuồng heo, chuồng dê (tham), chỗ nào sống bằng từ bi hỷ xả thì chỗ đó là cõi Phạm thiên. Chỗ nào sống bằng trí tuệ thì đó là thánh xứ. Nếu mình giàu có sung sướng tiện nghi mà đời sống tinh thần nghèo quá thì chỉ là con chó nhà giàu. Nói vậy nghe thì sốc kinh hoàng lắm nhưng nghe kinh thì đừng sợ sốc.

3. GIA ĐÌNH

Đức Phật dạy gia đình nào nữ nhiều nam ít thì lỡ có gì khó bề đối phó. Một tâm hồn không có sự tu tập, lỡ bị tám ngọn gió đời thì khó bề đối phó. Tu tập trong bài kinh này đặc biệt là tu tập Từ tâm. Kinh này dạy rằng Từ tâm là cách tự vệ tốt nhất. Vì nhiều lẽ:

1. Do nghĩ nhiều về người khác nên bớt khổ về mình.

Các bà mẹ VN, cao có một thước rưỡi, trọng lượng chưa tới năm chục ký mà một nắng hai sương, không biết cực khổ, làm nhiều chuyện đàn ông thanh niên còn sợ. Đàn bà con gái gì mà đêm hôm tay yếu chân mềm, qua quãng đường nghĩa trang, cổ miếu sương rơi gió lạnh vắng tanh, ngó trước trông sau chỉ có một mình mà gánh đòn gánh hột vịt lộn, cháo lòng để đi bán. Tại sao làm được điều đó? Chỉ vì thương con mà chuyện gì cũng làm. Không thấy lạnh, không thấy đói, không sợ ma quỷ cướp bóc vì không nghĩ tới mình. Các bà mẹ thời chiến, đang ngủ nghe tiếng súng đạn thì lùa con xuống hầm trước, rồi mình xuống sau. Trong ký ức của tôi, năm 1975 tôi đã 6 tuổi, mẹ tôi lùa đám con xuống hầm trước, còn mình thì là hư không vô biên, là rác là khói, vì nghĩ đến con. Có thể do ái, có thể do từ tâm. Chỉ vì nghĩ đến người khác, khi nghĩ đến người khác thì cỡ nào cũng dấn thân. Vì vậy, Từ tâm là cách tự vệ tốt nhất. Khi nghĩ đến người khác là mình bớt khổ

2. Công đức của Từ tâm là vô lượng

Để tạo phước vật chất không gì bằng sự cúng dường Tứ Phương Tăng. Để tạo phước đức không gì bằng Tứ Vô Lượng Tâm (từ, bi, hỷ, xả). Để tạo trí tuệ không gì bằng Tứ Niệm Xứ. Cứ nhớ ba con số 4 này thì sống khỏi cầu an, chết khỏi cầu siêu.

4. CÁI NỒI

* Từ bi hỷ xả

Bài kinh này cũng nói về từ tâm. Ngài xác định chỉ một nháy mắt tu Từ tâm thì công đức không sao kể hết. Chú giải nói thời gian rải tâm từ chỉ một chút xíu thôi nhưng công đức lớn kinh khủng bởi lòng nghĩ đến lợi ích chúng sinh.

Trong kinh nói có nhiều kiếp Bồ tát, tiền thân Đức Phật, chỉ tu bảy năm từ tâm mà suốt nhiều kiếp trái đất sống trên Phạm thiên, khi trở lại cõi Người Ngài có được tất cả những gì hay ho nhất.

Từ (metta): là mong người khác an lạc, có được những điều tốt đẹp

Bi (karuna): bất nhẫn trước cái khổ của người khác, mong người ta đừng bị chuyện gì xấu.

Hỷ (mudita): là vui khi thấy người ta được chuyện tốt đẹp.

Xả (upekkha): là sự thanh thản khi nghĩ đến nghiệp riêng của mỗi người.

Mình thương con quá sức mà dạy hoài không được, lòng xót xa đó là tâm Bi, bất nhẫn thấy con dạy không được. Nếu đúng là người có tu tập, có trí tuệ thì không tiếp tục khổ tâm vì con mà phải đạt đến Xả, biết rằng kiếp này nó là con của mình, tuy nó mười mấy tuổi nhưng trong dòng luân hồi nó và mình giống hệt nhau, có vô số nghiệp thiện ác đi theo để hỗ trợ hoặc hành hạ. Mình với nó y hệt nhau, chỉ có điều nó là đứa con mình đẻ ra nên mình không đành lòng. Đường cùng hết nước mình phải nhớ rằng nó có tiền gởi trong nhà băng sinh tử không thua gì mình; có những nghiệp thiện ác đi theo nó. Phũ phàng nữa là mình đã có thời gian nào nghĩ đến mẹ mình chưa? 

Chúng sinh thường nghĩ nhiều về tác phẩm của mình hơn là nguồn cội của mình. Thương con nhiều hơn cha mẹ. Vì sao? Vì tác phẩm gợi nhớ đến cái tôi của mình nhiều hơn cội nguồn của mình. Lâu lâu mình có nhắc đến cha mẹ một chút để hãnh diện, nhưng nhớ triền miên vẫn là con, bởi nó chính là tác phẩm của mình, cái tôi của mình. Lẽ ra mình phải nhớ rằng mình đối với cha mẹ ra sao thì mai sau con đối xử với mình y chang như vậy. Mình sẽ được hưu trí trong lòng con. 

Cha mẹ thương con thì đúng, nhưng phải thương theo kiểu tứ vô lượng tâm mới thanh thản, chỉ có trách nhiệm chớ không phải là gánh nặng (not burden, but duty). Muốn con được điều tốt đẹp, không muốn con bị bất hạnh thì đúng nhưng đường cùng phải nhớ nó có chiều dày quá khứ sinh tử không kém cạnh gì mình. Đời này chớ kiếp khác chắc gì gặp lại, chuyện gặp lại hiếm hoi như trong bài kinh Con Rùa Mù, Đầu Móng Tay. Hạnh nghiệp tương đồng mới mong gặp lại.

5. CÂY LAO

Một người tu tập Từ tâm thì ‘kim cang bất hoại”, nghĩa là an toàn. An toàn ở đây có hai nghĩa:

1- Hiện tại có thể nhờ phước của tâm từ mà tránh được họa hay tối thiểu khi gặp họa lòng cũng thanh thản vì đã lâu không nghĩ nhiều về bản thân.

2- Nhờ phước tu từ tâm, đời sau sinh ra ở những nơi an toàn.

Ngay cả ngoài chiến địa, trời xui đất khiến cũng đẩy mình vào chỗ an toàn, chỗ hầm sâu nhất, tránh được hỏa lực.

Không phải tu tâm từ là tránh được mà còn phụ thuộc vào việc tu tâm từ cỡ nào, có bị xen kẽ ác nghiệp quá khứ hay không. Đức Phật cũng bị vu oan giá họa, chỉ là người ta không giết được thôi, số lần người ta ám sát đếm không xuể, ngoại đạo thì ghét còn Ma Vương thì cứ muốn Ngài niết bàn. Đệ nhất thần thông bên tăng và bên ni đều gặp đại nạn. Vì vậy hôm nay mấy chuyện cầu an, cầu siêu khi gia đình gặp nạn…; thưa thiệt với bà con là mời thì thôi cũng tụng, tụng để kiếm bạc cắc đổ xăng, muốn thì chiều chớ bụng không có tin. VN có câu: “Nam mô hai chữ từ bi, Phật còn gặp nạn huống chi thầy chùa”, nghe có vẻ hài hước nhưng là sự thật. Đừng tin kiểu cuồng tín rồi mai mốt thất vọng, hãy tin sao cho khoa học một chút.

6. BẮN CUNG

Đức Phật dạy rằng mũi tên nhanh như vậy nhưng tốc độ nào đi nữa vẫn không bằng sự biến diệt, vô thường của ‘thọ hành’ (theo bản dịch của ngài Minh Châu). Trong bản Pāḷi Đức Phật dùng chữ ‘Āyusaṅkhārā’, trong chú giải là ‘rūpajīvitindriya’. Nghĩa là ‘mạng quyền’, là sinh lực, tuổi thọ, sức sống của mình. Ý nói cái chết rất dễ đến và từng phút thân xác sinh học của ta đang thay đổi chớp nhoáng.

Bảy mươi phần trăm cái gọi là bụi trong chỗ ở của một người là da khô của đương sự. Da khô, móng tay, ghèn, mũi, ráy tai là sự phát triển, thay đổi, bài tiết của cơ thể. Da khô được thay thế liên tục và liên tục mỗi ngày. Sống đó rồi chết đó. Phũ phàng là khi sống mình cứ để ý cái vết nám trên mặt trong khi chỉ là mười lăm phút sau mình có thể chết, và số người dám chạm vào người mình thì không nhiều lắm. Tôi là tu sĩ Phật Giáo, có điều kiện dự đám cũng hơi nhiều nhiều. Ở Mỹ có kiểu quan tài nắp đậy có một nửa, phần trên mở ra để cho mình nhìn lần cuối, có người thương thò tay vào rờ. Người dám rờ chỉ là người nhà, nhưng ở mức vợ chồng con cái hay anh em thôi, xa hơn nữa thì chú thím, cậu mợ dượng chắc không dám rờ.

Pha bình trà mà nãy giờ lo nói quên uống, bây giờ sắp hết giờ rồi. Xong bài kinh này là mình nghỉ, à không, còn bài kinh nữa tiếc quá, không giảng là uổng, bài kinh tiếp theo là bài kinh tôi rất là thích. Cái chốt trống. Đây là bài kinh không thể nào bỏ qua được.

7. CÁI CHỐT TRỐNG

* Cái trống Ānaka

Đây là một trong những bài kinh đáng được đọc tụng mỗi ngày và treo trên vách nhà.

Đức Phật dạy rằng ngày xửa ngày xưa, có một dân tộc Dasārahā giống như dân Chàm, dân Đại Việt, dân Văn Lang của người Việt xưa. Người Việt mình có trống đồng Ngọc Lũ, Đông Sơn v.v…thì dân tộc Dasārahā có một cái trống tên là Ānaka dùng để hiệu triệu. Người dân nghe tiếng trống thì tập trung lại họp mặt. Đức Phật nói cái trống này lâu quá thì hư, chỗ nào bằng gỗ thì sửa bằng gỗ, chỗ bằng da thì vá bằng da. Cái trống Ānaka nguyên thủy không còn nữa nhưng người ta vẫn kêu cái trống bằng tên cũ là Ānaka.

Đức Phật báo cho mình biết sẽ có một ngày tứ chúng đệ tử phàm phu của Ngài không còn tha thiết với lời dạy nguyên thủy của Ngài nữa mà họ sẽ thêm mắm dặm muối bằng những văn chương, thơ ca, tạp nhạp vào trong đó. Người ta vẫn gọi là Phật pháp nhưng buồn thay nó chỉ là cái tên thôi, như cái trống Ānaka sửa hoài, chằm vá miết, tên trống thì vẫn còn, nhưng bản thân cái trống không còn nữa. 

Sẽ có một ngày đi đâu cũng nghe nói là Phật pháp, nhưng nội dung thì không còn là Phật pháp nữa. Trong Bắc Tông có câu: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Khổ thay người đời sau sẽ có một lúc không còn phân biệt nữa, cứ thấy áo vàng không tóc thì gọi là thầy. Khi tin họ theo kiểu nhắm mắt nhắm mũi là có cái họa: họ bày tào lao thì mình mất cả đời, và khi phát hiện ra họ là đồ dỏm thì mình hận. Khi bất mãn là vơ đũa cả nắm. Nhiều người bỏ đạo vì một tăng một ni nào đó. Phật pháp là của chung, vì giận cá nhân nào đó mà bỏ đạo thì giống như giận ông bác sĩ nào đó rồi bịnh không uống thuốc. 

Bài kinh này rất là hay. Khi tôi ngưng rồi bà con tự đọc thầm bài kinh này một lần nữa. Chính Ngài nói, sẽ có một ngày, lời dạy của Ngài không còn được người ta nghe nữa, mà người ta sẽ kiếm những thơ ca, văn chương khác mà nghe, lời Phật thì bỏ qua một bên.
_________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

  1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma-sambuddhassa !

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa!

      Xóa
  2. Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma-sambuddhassa.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.