Chuyển đến nội dung chính

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 2 - Tương Ưng Thiên Tử - Phẩm Các Ngoại Đạo (2)

TƯƠNG ƯNG BỘ - Chương 2 - Tương Ưng Thiên Tử - Phẩm Các Ngoại Đạo (2)

PHẦN CHÁNH KINH

[02] Chương II Tương Ưng Thiên Tử
III. Phẩm Các Ngoại Ðạo (S.i,56)

X. Các Ngoại Ðạo Sư (S.i,65)

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở thành Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Rồi rất đông Thiên tử, là đệ tử của nhiều ngoại đạo sư Asama, Sahalì, Ninka, Akotaka, Vetambarì và Mànavà Gàmiya, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

3) Ðứng một bên, Thiên tử Asama nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Pùrana Kassapa:

Ở đây nếu có người,
Chém giết hay hại người,
Kassapa không thấy,
Qua các hành động ấy,
Là ác nghiệp cho mình,
Hay công đức cho mình.

Ngài tuyên bố như vậy,
Làm căn bản đức tin,
Ngài thật bậc Ðạo sư,
Ðáng được tôn kính, lễ.

4) Rồi Thiên tử Sahali nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Makkhali Gosàla:

Khổ hạnh và yếm ly,
Khéo điều phục, tự chế,
Từ bỏ các lời nói,
Gây đấu tranh với người,

Thăng bằng, tránh phạm tội,
Nói những lời thực ngữ,
Ngài không bao giờ làm,
Các tội phạm như vậy.

5) Rồi Thiên tử Ninka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Nigantha Nàtaputta:

Vị Tỷ-kheo yếm ly,
Sáng suốt theo tế hạnh,
Khéo theo bốn tự chế,
Chỉ nói điều nghe thấy,
Không phạm điều lỗi lầm.

6) Rồi Thiên tử Akotaka nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về các ngoại đạo sư:

Các ngoại đạo sư này,
Như Pakudhaka,
Và Kàtiyàna,
Cùng với Nigantha,
Kể cả Makkhali,

Và cả Puurana,
Mỗi vị là Ðạo sư,
Chúng đệ tử của mình,
Ðã đạt Sa-môn quả,
Không xa bậc Chân nhân.

7) Rồi Thiên tử Vetambarì nói lên bài kệ này với Thiên tử Akotaka:

Con giả can ghê tởm,
Có tru sủa thế nào,
Làm sao sánh bằng được,
Tiếng rống con sư tử.

Lõa thể, nói vọng ngôn,
Lãnh đạo môn đồ chúng,
Làm các hạnh tà vạy,
Làm sao sanh thiện nhân?

8) Rồi Ác ma nhập vào Thiên tử Vetambarì nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:

Tu khổ hạnh yếm ly,
Sống viễn ly hành xác,
Ðắm say trong sắc pháp,
Hoan lạc, mê Thiên giới.

Dầu họ bị tử vong,
Chắc chắn họ giảng dạy,
Hướng dẫn thật chơn chánh,
Ðưa đến đời về sau.

9) Rồi Thế Tôn biết được chính là Ác ma, liền nói lên bài kệ cho Ác ma:

Phàm những sắc pháp gì,
Ðời này hay đời sau,
Với màu sắc thù diệu,
Chói sáng giữa hư không,

Tất cả những sắc ấy,
Ðược Ma vương tán thán,
Chúng chỉ là bẫy mồi,
Quăng ra để diệt cá.

10) Rồi Thiên tử Mànava Gàmiya nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn về Thế Tôn:

Trong tất cả ngọn núi,
Ở tại Vương Xá thành,
Ngọn núi Vipula,
Ðược gọi là tối thắng.

Trong dãy núi Tuyết Sơn,
Ngọn Bạch Sơn tối thắng.
Giữa các loại không hành,
Mặt trời là tối thắng.

Giữa các loại thủy lộ,
Ðại dương là tối thắng.
Trong các loài tinh tú,
Mặt trăng là tối thắng.

Giữa Thiên giới, địa giới,
Phật được gọi tối thượng.

PHẦN GIẢNG GIẢI
CỦA SƯ GIÁC NGUYÊN (TOẠI KHANH)

Chương 2: Tương Ưng Thiên Tử
Phẩm Các Ngoại Đạo

CÁC NGOẠI ĐẠO SƯ (Nānātitthiyasāvakasutta)

Trong kinh Tương Ưng mình đang học thỉnh thoảng cũng có những bài kinh tương tự thế này. Đôi khi Đức Thế Tôn có những cuộc thăm viếng. Ở đây các vị Thiên tử từ cõi Trời đi đến chùa Trúc Lâm để lễ Phật, gặp Phật, hầu Phật. Còn trong những bài kinh khác thì thỉnh thoảng Đức Thế Tôn thăm viếng các cảnh giới Phạm thiên hoặc các cõi Dục Thiên, ở đó Ngài cũng có cuộc gặp gỡ với nhiều vị đang sống ở đó. 

Chẳng hạn như có lần Ngài đến cõi Đao Lợi, hoặc cõi Phạm Thiên, có những vị đến hầu ngài và họ xác nhận rằng: Con là đệ tử của ai, của ai… nhất là cõi Phạm thiên. Chúng sanh ở Phạm Thiên sống lâu nhiều kiếp trái đất, họ nói con là đệ tử của Đức Phật Vipassī, con là đệ tử của Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (Koṇāgamana), con là đệ tử Phật Ca Diếp và có những vị xác nhận con chính là đệ tử của Thế Tôn. Chuyện đó xảy ra nhiều lần trong đời Đức Phật, khi Ngài có những cuộc thăm viếng. Chữ “thăm viếng”của Đức Phật không có nghĩa giống như chúng ta, chúng ta có thể vì thích vì tình riêng mà đi, còn Đức Phật thì đi vì duyên sự độ sinh. Biết sự có mặt của Ngài ở nơi chốn nào đó mà mang lợi lạc cho người ta Ngài mới đi.

Trong bài kinh này, các vị Thiên tử hầu hết là những vị du sĩ ngoại đạo, đệ tử của du sĩ ngoại đạo đến hầu Phật. Vì sao du sĩ ngoại đạo lại sanh thiên? Theo quan điểm tôn giáo, chính trị xã hội nào đi nữa mà nếu như chúng ta sống thiện, hành thiện, yêu điều thiện, ghét điều ác thì một cách rất là tự nhiên, sau khi mạng chung mình vẫn đi về cảnh giới tương xứng với con người của mình. Còn chuyện về lâu về dài của hành trình giải thoát thì ai có trí tuệ nhiều, ai có chánh kiến thì dĩ nhiên tốt nhất, còn trong cuộc sinh tử luân hồi, ai làm tròn yêu cầu, có nhiều phước báu, công đức, thì bớt được thời gian làm bậy, giống như tủ quần áo đựng đồ cũ nhiều quá thì không có chỗ cho đồ mới còn đựng đồ mới nhiều quá thì không có chỗ cho đồ cũ đồ rách. Những vị này là ngoại đạo nhưng họ cũng có thể sanh thiên. Trong số đến hầu Phật có một vị tên là Mānava Gāmiya, trước khi về trời thì ông là đệ tử của Đức Phật. Ở đây không có gì cần giải thích, trong chú giải thì mênh mông hà xứ nhưng cũng không có gì đặc biệt.

Tâm bị ám (nhập)

Ở đây, có những vị tán thán Đức Phật. Có một vị Thiên tử tên là Vetambarī bị Ác ma ‘nhập’, Hòa thượng Minh Châu dịch theo ngôn ngữ tiếng Việt Nam của mình, ‘nhập’ là ‘dựa vào’. Hiểu theo A-tỳ-đàm là ‘nhập’ ở đây có nghĩa là người ta dùng thần thông tác động vào tâm của mình. Có một số điểm lưu ý ở đây:

Đức Phật hoằng pháp 45 năm, Đản Sinh ngày rằm tháng Tư, Thành Đạo cũng rằm tháng Tư, 45 năm sau, niết-bàn cũng rằm tháng Tư. Rằm tháng Giêng, ba tháng trước khi Ngài tròn 80 tuổi, Ác Ma Thiên tử xuống thỉnh Đức Phật viên tịch Niết-bàn, Ngài đã nhận lời. Trước khi Ác Ma Thiên tử xuống, Đức Phật có nhiều lần gợi ý ngài Ānanda một chuyện, đó là, người như Ngài, nếu muốn có thể sống thêm ít lâu. Trong kinh nói là Ác Ma Thiên tử dùng thần thông tác động cái tâm ngài Ānanda làm cho ngài nghe Đức Phật nói vậy mà ngài không hiểu. Suốt nhiều lần như vậy. Tâm bị ám: pariyuṭṭhāti.

Một lát nữa mình sẽ học về một vị vua tên là Ba-Tư-Nặc (Pasenadi Kosala), ông vua này có một bà hoàng hậu rất thương. Ông tới hỏi Đức Phật một số vấn đề, khi duyên chưa tới, chưa đến lúc cần trả lời thì Đức Phật dùng thần thông tác động cho ông quên chuyện đó đi. Kinh điển Nam Tông định nghĩa rõ chữ ‘nhập’ ở đây là vậy đó, dùng thần thông tác động lên hệ thần kinh của người ta. Đối với nhân loại thì tạo cho họ một âm thanh một hình ảnh nào đó hướng dẫn suy nghĩ của họ về hướng khác, còn chư thiên không có hệ thần kinh giống như mình thì cũng dùng thần thông tạo âm thanh hình ảnh để cho họ phóng tâm. 

Ở đây, các vị Thiên tử đến hầu Phật, mỗi vị nói lên cảm nghĩ của mình, riêng một vị Thiên tử tên là Vetambarī bị Ác Ma dùng thần thông tác động lên tâm của ông để ông nói lên một điều trớt quớt, đi ngược tinh thần Phật pháp. Đại ý của các bài kệ này, theo Chú giải thì tuy đệ tử các ngoại đạo khi sanh về trời, họ có điều kiện để nghe pháp, có điều kiện tiếp xúc bậc hiền trí nhiều hơn cõi Người, do đó khi họ xuống hầu Phật, họ phát biểu rất là Phật Giáo, dù họ là ngoại đạo. Ở cõi Người, cơ hội đi lại học hỏi không nhiều, và trong cái không nhiều đó, A khác B. Ví dụ trong thời đại này, người trong nước không có điều kiện nghiên cứu học hỏi hoặc tiếp cận các nguồn tài liệu phong phú như người ở hải ngoại.

Nội dung bài kệ này cũng là vấn đề tu tập nhưng ở đây có những khía cạnh mà tôi bận tâm:

-Định nghĩa thế nào là chữ “nhập”.

-Dầu cho mình đi theo tôn giáo nào đi nữa mà có lòng hướng thiện và hướng thượng thì cuối cùng trăm sông cũng đổ về biển cả, cũng trở về con đường giải thoát.

-Dầu mình là ai đi nữa nhưng nếu sống trong môi trường có điều kiện đi lại và học tập thì hy vọng của mình vẫn tốt.

Trong kinh nói trên cõi Trời mỗi nửa tháng là có một buổi pháp hội do các vị Phạm Thiên hoặc Thiên tử có khả năng thuyết giảng y như dưới cõi này. Khi sinh làm người, lòng mình rộng rãi (không nói riêng về vật chất; ở đây nói về người không cố chấp, người có tâm hồn thoải mái không tự đóng khung làm khó mình bằng những quan điểm cố chấp) thì mình có nhiều cơ hội học hỏi và mai mốt đi về cảnh giới nào cũng có cơ hội học hỏi nhiều hơn người khác. Tôi có điều kiện tiếp xúc với nhiều người mà nhìn họ tôi ngộp thở không được, tôi thấy những quan điểm về gia đình, xã hội, chính trị, văn hóa có vẻ tự bế, tôi sợ, họ khư khư không có cởi mở. 

Mọi học thuyết trên đời này chỉ là những giải pháp tạm thời, mọi công thức mọi nguyên tắc cũng chỉ là giải pháp tạm thời. Không có gì bậy cho bằng ôm khư khư một vài công thức của tôn giáo chính trị và thờ phụng coi như nó là chân lý đời đời bất diệt rồi sống chìm sâu trong đó trong khi cuộc đời thì không ngừng thay đổi. Vào thời điểm đó, học thuyết đó, chủ nghĩa đó xài được, nhưng vào thời điểm khác thì không như vậy. Bài kinh này mở ra cho mình nhiều vấn đề để lưu ý. Bài kinh này chủ yếu là tán thán, có vị nói rằng trong tất cả thiên hạ trên đời này không ai bằng sư phụ của mình, có vị nói không ai bằng Đức Phật trong tất cả thiên hạ trên đời này.
________________________________________

Bài viết được trích từ Bài Giảng Kinh Tương Ưng
của Tỳ Khưu Giác Nguyên (Toại Khanh) do Nhị Tường ghi chép lại.
Được lưu trữ dưới dạng âm thanh tại đây: www.vietheravada.net
Bản kinh Pāḷi và Sớ giải tham khảo từ địa chỉ www.tipitaka.org.

Xem thêm: Kinh Tương Ưng Bộ


Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.