Chuyển đến nội dung chính

Chuyện Kể Đạo Phật - Đổi đài trong Tâm

Xe ủi lô

Sáng nay trong lúc ngồi thiền, có một xe ủi lô chạy ngay phía sau chùa và cứ thế đi tới đi lui để ủi và nén đất, phát ra tiếng ồn đinh tai nhức óc làm tôi khó chịu vô cùng. Tôi cố gắng chú tâm vào hơi thở để quên đi tiếng ồn nhưng vô hiệu. Bỗng tôi nhớ lại câu: "Ghi nhận và chấp nhận sự vật như nó là. Đau khổ phát sinh khi muốn sự vật phải theo ý mình". Tôi bèn nhìn xem tâm nào đang khó chịu? Thật ra tiếng ồn không thể nào làm gì được tâm, vì tâm vô hình chất, không bị chướng ngại. Nó chỉ bị chướng ngại khi nó bắt đầu chấp và khởi lên ý niệm ưa ghét, lấy bỏ. Nguyên nhân của sự khổ sở là "tâm phân biệt", phán đoán đây là tiếng ồn khó chịu quá, và từ đó làm khởi lên sự chán ghét, khó chịu, bực dọc.
Đạo Phật Nguyên Thủy - Chuyện Kể Đạo Phật - Đổi đài trong Tâm

Vậy phải làm sao đây?

Hãy ghi nhận sự vật như nó là và chấp nhận nó như thế. Và an trụ trong tánh rỗng lặng của tâm. Gặp cảnh trái ý hay vừa lòng, giữ tâm không ưa ghét, lấy bỏ. Và rồi cái gì có đến thì có đi, cái xe ủi lô kia chạy một hồi rồi cũng phải ngừng. Sự vật vô thường mà! Cái phiền (khổ) đến thì nó sẽ đi, điều quan trọng là mình có đủ kiên nhẫn chờ nó ra đi hay không?

Đổi đài trong tâm

Trong báo Reader Digest có kể một chuyện thưa kiện khá lạ đời. Một ông nọ xem tivi, chương trình Fear Factor sợ quá rồi bị ám ảnh, ông ta đệ đơn kiện chương trình này phải bồi thường. Nhưng quan tòa bác đơn và nói ngày nay người ta chế ra cái đồ bấm đổi đài (remote control) để làm gì? Nếu ông xem thấy sợ thì phải biết đổi đài. Ông không đổi đài là lỗi tại ông chứ không phải tại đài truyền hình.

Trong tâm con người cũng có nhiều đài, nhiều băng tần như tivi, radio. Có những đài mang tên buồn, vui, ưa, ghét, giận, hờn, lo, sợ, v.v... Đài mang tên buồn thì hay chiếu những chuyện buồn đủ loại từ nhiều năm cũ. Đài mang tên vui thì chuyên phát những chuyện vui quá khứ. Đài mang tên ưa thì hay chiếu những thứ mà ta ưa thích, thèm muốn. Đài mang tên ghét thì hay chiếu những thứ khiến cho ta phát ghét, v.v...

Hàng ngày khi tiếp xúc với cảnh vật bên ngoài, gặp cái gì đáng yêu thì về nhà hình ảnh đó cứ hiện lên hoài trong tâm, đây là chúng ta đang xem đài "vui"; thấy cái gì đáng ghét thì hình ảnh đó cũng hiện lên hoài và chúng ta bị dính vào đó rồi buồn bực không nguôi, đây là tâm đang chiếu đài "buồn" cho ta xem. Nếu buồn quá thì phải biết đổi đài, tức là khởi tâm suy nghĩ, nhớ lại chuyện vui nào khác. Nếu vui quá mà ngủ không được thì ta cũng có thể đổi đài, nghĩ đến cái gì đó cho tâm bình lại để bớt kích thích. Sự đổi đài này trong đạo Phật gọi là thay chốt .

Khi tâm tham, sân, si thì nó phát ra những ý nghĩ, hình ảnh tham, sân, si làm mình phiền não. Nhưng ta không biết là mình có thể đổi đài nên cứ nằm yên hoặc ngồi ì ra đó chịu trận. Khi tham thì radio hay tivi tham phát ra các ý tưởng tham lẩn vẩn trong đầu xúi giục ta tìm cách thỏa mãn lòng tham. Khi sân thì đài radio, tivi trong tâm cứ phát ra những ý tưởng sân xúi giục ta phải giận hờn, la hét, chửi bới, đánh đập người làm trái ý ta.

Con người có khả năng suy nghĩ, vậy hãy dùng khả năng này mà đổi đài trong tâm để thoát khổ. Nói thì có vẻ dễ nhưng muốn xử dụng được khả năng đổi đài trong tâm không phải là dễ. Đó là lý do tại sao cần phải tu tập thiền quán, vì thiền quán giúp chúng ta có chánh niệm, tỉnh giác, có định lực và từ đó mới có thể đổi đài trong tâm dễ dàng.

Hãy bước ra ngoài cảm thọ

Khi bị phiền não (thương, ghét, buồn, giận, nuối tiếc, ân hận, v.v...), đó là trong tâm đang chiếu phim cho ta xem. Trong đạo gọi đó là "tưởng", tức là tưởng nhớ quá khứ, rồi phát sinh ra "thọ" (cảm thọ). Khi rơi vào cảm thọ người ta thường mắc kẹt trong đó không biết đường ra. Thí dụ như buồn thì cứ buồn hoài không nguôi; nhớ thì cứ nhớ hoài không quên; giận thì cứ giận mãi không hết, v.v... Khi gặp trường hợp này, tôi gọi đó là bị nhốt trong "phòng cảm thọ".

Con người được cấu tạo bởi "năm uẩn" (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), giống như một căn nhà có năm phòng. Có lúc bạn tưởng mình là "sắc" (thân thể) khi chăm lo cho nó ăn uống, ngủ nghỉ. Có lúc bạn tưởng mình là "thọ" khi bị đau nhức, bệnh hoạn hoặc buồn khổ trong tâm. Có lúc bạn cho mình là "tưởng" khi tưởng nhớ quá khứ, hay tưởng tới tương lai. Có lúc bạn cho mình là "hành" khi suy nghĩ, tính toán, lo lắng đủ chuyện. Có lúc bạn tưởng mình là "thức" khi cảm thấy mình biết cái này cái nọ. Trong ngày, bạn cứ chạy lòng vòng, quanh quẩn trong năm căn phòng này. Nhưng mỗi khi bị phiền não thì bạn quên mất mình là chủ nhà có khả năng qua lại tự do và nằm yên chịu trận trong căn phòng cảm thọ.

Bên trên nói bạn "đổi đài trong tâm", tức là nhắc bạn hãy bước ra khỏi phòng cảm thọ bằng cách đi qua "phòng tưởng" (nhớ lại chuyện vui) hoặc "phòng hành" (suy nghĩ chuyện vui). Nhưng nếu không làm được thì bạn hãy vùng dậy, bước qua "phòng sắc", bằng cách an trú vào hơi thở nếu đang ngồi, hoặc theo dõi bước chân nếu đang đi, hoặc chú tâm vào bất cứ hành động nào thân đang làm.

Nhiều người đau khổ vì tình, tìm đến tu tập Thiền Minh Sát (Tứ Niệm Xứ), được dạy chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng khi hít thở, hoặc chú tâm ghi nhận từng bước chân, nhờ đó mà từ từ họ thoát khỏi khổ đau (thuộc cảm thọ).

Bài viết được Đạo Phật Nguyên Thủy trích từ cuốn sách
Dòng Đời Vô Tận của Hòa thượng Thích Trí Siêu

Nhận xét

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN

Kinh Tăng Chi Bộ - 10 kiết sử

(III) (13) Các Kiết Sử 1. - Này các Tỷ-kheo, có mười kiết sử này. Thế nào là mười? 2. Năm hạ phần kiết sử, năm thượng phần kiết sử. Thế nào là năm hạ phần kiết sử? 3. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân. Ðây là năm hạ phần kiết sử.

Kinh Tương Ưng Bộ - Tham luyến

I. Tham Luyến (Tạp 2, Ðại 2,9a) (S.iii,53) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, tham luyến là không giải thoát. Do tham luyến sắc, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với sắc là sở duyên, với sắc là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 4) Hay do tham luyến thọ ... tham luyến tưởng ... tham luyến hành, này các Tỷ-kheo, thức có chân đứng được an trú. Với hành là sở duyên, với hành là trú xứ, (thức) hướng tìm hỷ, đi đến tăng trưởng, tăng thịnh, lớn mạnh. 5) Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Ngoài sắc, ngoài thọ, ngoài tưởng, ngoài các hành, tôi sẽ chỉ rõ sự đến hay đi, sự diệt hay sanh, sự tăng trưởng, sự tăng thịnh hay sự lớn mạnh của thức", sự việc như vậy không xảy ra. 6-10) Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với sắc giới; do tham được đoạn tận, sở duyên được cắt đứt, chỗ y chỉ của thức không có hiện hữu. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo đoạn tận tham đối với thọ giới... đối với t

Thiền Vipassana - Thiền Tứ Niệm Xứ (Thích Trí Siêu)

Thiền Tứ niệm xứ (Thích Trí Siêu -  1998) _______________________ Mục Lục [1] Vài lời cùng bạn đọc [2] Mở đầu  [3] Tứ Niệm Xứ và Bát Nhã Tâm Kinh  [4] Tứ Niệm Xứ và Thiền Tông  [5] Thiền và Tịnh Ðộ  [6] Tứ Niệm Xứ và Bồ Tát Ðạo  [7] Phương pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ  [8] Kết luận [9] Phụ Lục - Kinh Quán Niệm Sách Thiền Tứ Niệm Xứ đã được tái bản nhiều lần. Riêng trong kỳ tái bản này sách được bổ túc thêm phần Phụ Lục với Kinh Niệm Xứ, dịch từ "Discourse on the Applications of Mindfulness" (Satipatthanasutta) trong "Middle Length Sayings" (Trung Bộ Kinh) của Pali Text Society, I.B. Horner, 1967.

TÌM HIỂU KINH PHẬT - TƯƠNG ƯNG BỘ TẬP 3 - Chương 9 - Tương Ưng Kim Xí Ðiểu

PHẦN CHÁNH KINH KINH TƯƠNG ƯNG TẬP 3 [30] Chương IX: Tương Ưng Kim Xí Ðiểu I. Chủng Loại (S.iii,246) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh, loại Kim xí điểu từ thai sanh, loại Kim xí điểu từ ẩm ướt sanh, loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. II. Mang Ði (Tăng 19, Ðại 2, 646a) (S.iii,247) 1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi... 3) -- Này các Tỷ-kheo, có bốn loại Kim xí điểu về sanh chủng. Thế nào là bốn? Loại Kim xí điểu từ trứng sanh... loại Kim xí điểu hóa sanh. Này các Tỷ-kheo, đây là bốn loại Kim xí điểu. 4) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ trứng sanh chỉ mang đi các loại Nàga từ trứng sanh, không mang đi các loại Nàga từ thai sanh, từ ẩm ướt sanh và hóa sanh. 5) Tại đây, này các Tỷ-kheo, các loại Kim xí điểu từ thai sanh, mang đi các loại Nàga từ trứng sanh và các loại Nàga từ thai sanh, không mang đi các loại Nàga từ ẩm ướt sanh và các loại

Kinh Tương Ưng Bộ - Sức mạnh của Đàn Bà

30. VI. Họ Ðuổi Ði (S.iv,247) 1) ... 2) -- Này các Tỷ-kheo, người đàn bà có năm sức mạnh này. Thế nào là năm? Sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, sức mạnh giới hạnh. 3) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc và sức mạnh tài sản, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. Và này các Tỷ-kheo, nếu người đàn bà đầy đủ sức mạnh nhan sắc, sức mạnh tài sản, sức mạnh bà con, sức mạnh con trai, nhưng không có sức mạnh giới hạnh, thời họ đuổi người đàn bà ấy, không cho ở trong gia đình. 4) Này các Tỷ-kheo, người đàn bà đầy đủ sức mạnh giới hạnh,

Kinh Tương Ưng Bộ - Vô ngã tưởng

VII. Năm Vị (Vô ngã tưởng) (Ðại 2,7c) (Luật tạng, Ðại phẩm q.1, từ trang 3) (S.iii,66) 1) Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển. 2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 3) -- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!" 4) Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"

Kinh Tăng Chi Bộ - Ác ý

(VIII) (18) Con Cá 1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Trong khi đi giữa đường, Thế Tôn thấy tại một chỗ nọ, một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá. Thấy vậy, Ngài bước xuống đường và ngồi xuống trên chỗ đã sửa soạn dưới một gốc cây. Sau khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: 2. - Này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy người đánh cá kia, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá? - Thưa có, bạch Thế Tôn. - Các Thầy nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, các Thầy có thấy hay có nghe như sau: "Một người đánh cá, sau khi bắt cá, giết cá, đang bán cá; do nghiệp ấy, do mạng sống ấy, được cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe, cưỡi cỗ xe, được thọ hưởng các tài sản, hay được sống giữa tài sản lớn hay tài sản chất đống"? - Thưa không, bạch Thế Tôn.

Kinh Tương Ưng Bộ - Dục là căn bản của Khổ

XI. Bhadra (Hiền) hay Bhagandha-Hat- Thaha (S.iv,327) 1) Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla. 2) Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. 3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn: -- Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ! -- Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ"; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ. Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng: "Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai"; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ. Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta

Kinh Tương Ưng Bộ - Ví dụ mũi tên

6. VI. Với Mũi Tên (S.iv,207) 1-2) ...  3) -- Này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu, cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 4) Này các Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử cũng cảm thọ cảm giác lạc thọ, cảm thọ cảm giác khổ thọ, cảm thọ cảm giác bất khổ bất lạc thọ. 5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, thế nào là đặc thù, thế nào là thù thắng, thế nào là sai biệt giữa bậc Ða văn Thánh đệ tử và kẻ vô văn phàm phu?

Kinh Trung Bộ - 27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi

27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi (Cùlahatthipadopama sutta) Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika: -- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy? -- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây. -- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không? -- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.